Tên khoa học Gentiana scabra Bunge.
Thuộc họ Long đởm Gentianaceae.
Long đởm thảo (Gentiana hay Radix Gentianae) là thân rễ và rễ phơi hay sấy khô của cây long đởm Gentiana scabra Bunge hay những loài khác cùng họ.
A. Mô tả cây
Cây long đởm lá một loại cỏ sống lâu năm, cao 35-60cm. Thân rễ ngắn, rễ nhiều, đường kính 2-3mm, vỏ ngoài màu vàng nhạt. Thân mọc đứng, đơn độc hay 2-3 cành, đốt thường ngắn so với chiều dài cùa lá, Lá mọc đối, không cuống, lá phía dưới thân nhỏ, phía trên to rộng hơn, dài từ 3-8cm, rộng từ 0,4-3cm. Hoa hình chuông màu lam nhạt hay sẫm, mọc thành chùm không cuống ở đầu cành hoặc ở kẽ những lá phía trên.
Mùa hoa tháng 9-10, mùa quả tháng 10 (Hình dưới).
B. Phân bố, thu hái và chế biến
Hiện nay ta vẫn phải nhập của Trung Quốc. Tại Trung Quốc cây này mọc ở Hắc Long Giang, Phúc kiến, Quàng Đông. Qua sự phân bố ở Trung Quốc ta có thể chú ý tìm ở Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng Ninh.
Thu hái vào mùa thu và mùa xuân, mùa thu tốt nhất. Hái về rửa sạch đất cát phơi khô.
A. Thành phần hoá học
Trong long đờm có một glucozit đắng chừng 2% gọi là gentiopicrin C16H20O9 và một chất đường gọi là gentianoza C18H32O16 chừng 4%.
Thủy phân gentiopicrin ta sẽ được gentiogenin C10H10O4 và glucoza.
Gentianoza gổm hai phân tử glucoza và một phân tử fructoza.
B. Tác dụng dược lý
Theo Ebeling, long đởm thảo có tác dụng phòng sự lên men, uống ít (nửa giờ trước bữa ăn) có tác dụng kích thích sự bài tiết dịch tiêu hoá, làm khoẻ dạ dày; ngược lại, uống sau khi ăn cơm hay uống quá nhiều, lại làm cho tiêu hoá kém sút, nhức đầu, hoa mắt, mặt đỏ.
Theo Nội điền trang thái lang (Nhật Bản, 1938), nghiên cứu tác dụng chất đắng của long đởm thảo trên dạ dày nhỏ của chó thì thấy cho chó uống long đởm thảo sự bài tiết dịch vị tăng tiến và lượng axit tự do cũng tăng hơn.
C. Công dụng và liều dùng
Theo tài liệu cổ, long đởm vị dắng, tính hàn, vào 3 kinh can, đởm và bàng quang. Có tác dụng tả can đảm thực hoả, thanh hạ tiêu thấp nhiệt, có tính chất thu sáp. Những người tì vị hư nhược, đi tả và không thấp nhiệt, không thực hoả thì không dùng được.
Long đởm thảo được dùng làm thuốc giúp sự tiêu hoá, thuốc bổ đắng; làm cho đại tiện dễ dàng mà không gây ỉa lỏng.
Liều dùng hàng ngày 2-3g dưới dạng thuốc sắc hoặc thuốc rượu.
Ngoài công dụng giúp sự tiêu hoá, long đởm thảo còn tác dụng chữa sốt, đau mắt đỏ nhức, an thần kinh.
Đơn thuốc có long đởm thảo
1. Long đởm thảo 2g, đại hoàng 1g, hoàng bá 1g, nước 200ml, sắc lấy 100ml. Chia 3 lần uống trong ngày, 15 phút trước bữa ăn để làm thuốc giúp sự tiêu hoá, ăn uống không tiêu.
2. Long đởm thảo 0,5g; hoàng bá 0,5g; sinh khương sấy khô 0,3g; quế chi 0,3g; hồi hương 0,3g; kê nội kim 0,6g, sơn tra sao cháy 1g. Tất cả tán bột, trộn đều. Chia 3 lần uống trong ngày, chữa đau dạ dày, ăn uống không tiêu, đầy bụng (theo Hoà hán dược dụng nghiệm phương).
Chú thích:
Ngoài vị long đởm kể trên, trong đông y còn dùng nhiều loại long đởm khác, những vị thuốc gần giống và gồm những rễ nhỏ. Nhưng trong tây y lại dùng một loại khác (Gentiana lutea L.) có hoa màu vàng, rễ to hơn, thái thành từng miếng mỏng, có người dịch nhầm là khổ sâm vì là vị thuốc bổ mà lại đắng.
Tất cả những cây này đều chưa thấy ở nước ta.
Nguyên Liệu Làm Thuốc trích từ nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của GS-TS Đỗ Tất Lợi
Nhận xét
Đăng nhận xét