Còn gọi là phấn long cốt, hoa long cốt, thổ long cốt.
Tên khoa học Os Draconis, (Fossilia Ossis Mastodi), Os Draconis coloratus, Os Draconis nativus.
Long cốt là một vị thuốc do kết quả hóa thạch (hóa đá) của xương một số động vật thời cổ đại như loại voi mamut, tô giác, lợn rừng v.v...
A. Thu hoạch, chế biến
Long cốt có thể thu hoạch quanh nam. Khi đào được cần bọc kỹ ngay vì ra khí trời thường dễ tả rời ra.
B. Thành phần hóa học
Năm 1958, hộ dược của Viện y học Bắc Kinh đã nghiên cứu phân tích loại long cốt tiêu thụ trên thị trường Bắc Kinh thấy có rất nhiều Ca2+,CO32-, PO43-, một lượng nhỏ Fe3+, Fe2+, Al3+, Mg2+ và SO42-, Cl-.
C. Công dụng và liều dùng
Long cốt mới chỉ thấy dùng trong đông y.
Theo đông y long cốt có vị ngọt, sáp, tính bình, có khả năng trấn kinh, an thần, sáp tinh và làm hết mồ hôi, dùng chữa trường hợp hồi hộp mất ngủ, thần trí không yên, mồ hôi trộm, xích bạch đới, tả lỵ lâu ngày, vết loét lâu ngày không lành.
Ngày dùng 20-40g, có người chì dùng có 2-10g một ngày dưới dạng thuốc bột hay thuốc sắc.
Đơn thuốc có long cốt
1. Chữa mồ hôi trộm: Ôn phấn (trong sách Thiên kim phương). Long cốt nung, mẫu lệ nung, sinh hoàng kỳ, mỗi vị 12g, bột tẻ 40g. Tất cả tán nhỏ thành bột, cho vào lụa thưa gói lại. Xoa lên da để chữa bệnh ra mồ hôi trộm, tự ra mồ hôi.
2. Bột cầm máu: Long cốt 30g, ô tặc cốt 30g. Cả hai vị tán nhỏ, khi có vết loét chảy máu rắc bột này lên (kinh nghiệm nhân dân).
Chú thích:
Cùng loại long cốt này còn có loại long sỉ Dens Draconis (Fossilia Dentis Mastodi) cùng thành phần hóa học và cùng một công dụng, cùng nguồn gốc như long cốt. Khi dùng hoặc để sống hoặc nung lên rồi mới tán bột.
Nguyên Liệu Làm Thuốc trích từ nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của GS-TS Đỗ Tất Lợi
Nhận xét
Đăng nhận xét