Chuyển đến nội dung chính

ỔI - Giá trị dinh dưỡng và Dược tính của ỔI

ỔI (Psidium guajava-Myriaceae) - Giá trị dinh dưỡng và Dược tính của ỔI
‘Ổi chưa ăn được sao gọi ổi già
Trách người quân tử giải mà cho thông’
(Ca dao)

Người Việt miền Nam Việt Nam, nhất là những người sinh sống trong vùng Châu thổ sông Cửu Long hoặc qua lại những bến phà Mỹ Thuận, Cần Thơ.. không thể nào quên nổi một trái cây thân yêu: đó là trái ổi, nhất là Ổi xá lị, mùi thơm vị ngọt đặc biệt rất ít hột. Với dân nhậu chỉ cần vài lát ổi hay xoài chấm với mắm ruốc là đủ đi bay vài xị đế..

Ổi cũng theo chân người Việt trên bước đường tha hương, nhưng Ổi tại Hoa Kỳ (tuy ổi có nguồn gốc tại Châu Mỹ) lại không hẳn là những trái ổi ngày xưa..

Tên khoa học và các tên thông thường:

- Tên khoa học: Psidium guajava thuộc họ thực vật Myriaceae.

- Các tên thông thường: Guava (Anh-Mỹ); Goyave (Pháp); Guayabana (Mễ); Goiaba (Brazil).

Tên Psidium do tiếng Hy lạp psidion = quả lựu để mô tả quả có nhiều hạt nhỏ giống như quả cây lựu. Guajava phát xuất từ tên gọi tại Haiti ‘guaya vu’ và tên Anh ngữ cũng từ đó mà ra.

Lịch sử và Đặc tính thực vật:

Ổi được xem là có nguồn gốc tại Peru và Brazil (hiện vẫn là nơi trồng nhiều ổi nhất thế giới), sau đó trở thành cây thương mại quan trọng tại Hawaii, Úc, An độ, Mexico và các nước Đông Nam Á. Tại Mỹ, ổi được trồng nhiều nhất tại các Tiểu bang Florida và California..

Ổi đã được thuần hóa tại Peru từ hàng ngàn nắm trước (có thể từ năm 800 trước Tây Lịch). Các khai quật khảo cổ tại các cổ mộ đã tìm thấy hạt ổi tồn trữ chung với hạt đậu, bắp và bầu bí. Tại vùng Amazon, ổi được chim và khỉ mang hạt đi khắp nơi, tạo những rừng ổi, có những bụi cao đến 20m (trong khi ổi trồng, chỉ ở mức 10 m cao).

Người Âu châu biết đến ổi khi họ đặt chân đến Haiti và dùng ngay tên gọi của dân Haiti để chỉ trái cây ngon ngọt này. Càc thủy thủ Tây ban Nha và Bồ đào Nha đã đem cây khi khắp nơi. Ôi có lẽ chỉ đến Hawaii vào đầu thế kỷ 18 và sau đó đến các hải đảo trong Thái Bình Dưởơng.

Có khoảng 100 loài psidium, mọc thành bụi hay tiểu mộc. Loài được trồng rộng rãi nhất là P. guajava. Ngoài ra loài P. guineense (Ổi Brazil) được cho lai tạo với P. guajava để cho loài ổi có khả nẵng chịu đựng thời tiết lạnh, cho trái tuy nhỏ nhưng lại nhiều hơn.Một số loài đáng chú ý như P.littorale var.littorale (yellow strawberry guava) cho trái tương đối lớn, ngọt, vàng; loài P.liitorale var. longipes (red sirawberry guava) cho trái màu đỏ tím, có vị dâu tây.

Psidium guajava (guava, yellow guava, apple guava) thuộc loại cây trung bình cao 5-10m. Thân có vỏ nhẫn, mỏng, khi già bong từng mảng, màu nâu đỏ. Cành khi non hình vuông có nhiểu lông mềm, khi già hình trụ và nhẵn. Lá mọc đối, hình trái xoan hay thuôn, dài chừng 15cm rộng 3-6cm, phía gốc có thể tù hay hơi tròn, gân lá nổi rõ ở mắt dưới và phủ mội lớp lông mịn. Cuống lá ngắn chừng 3-5mm. Hoa mầu trắng, đường kính chừng 2.5cm, có nhiều nhị, có thể mọc đơn độc hay tụ 2-3 hoa thành cụm ở nách lá. Hoa nở vào đầu mùa hè. Quả mọng, hình cầu hay dạng quả lê, dài đến 10cm, chứa rất nhiều hạt nhỏ. Đài hoa còn tồn tại trên quả. Cây bắt đầu cho quả sau 2 nắm tuổi.

Mội số chủng được trồng tại Hoa Kỳ như:

- ‘Beaumont’: gốc từ Oahu (Hawaii) quả tròn, to, thịt màu hồng nhạt, vị hơi chua.

- ‘Red Indian’, gốc từ Florida-1945: quả vàng nhạt, rất thơm, thịt hồng nhạt khá ngọt.

Một số chủng khác, được đưa từ các nước nhiệt đới vào Hoa Kỳ như:

- ‘Hong Kong Pink’: Trái cỡ trung bình, thịt màu hồng nhạt.

- ‘Indonesian Seedless’ Trái to, nhiều nước, thịt trắng, chắc khá ngon, ít hột, có lẽ là Ổi xá lị tại Việt Nam.

Psidium littorale var. longipes = P. caiileianum (purple sirawberry guava, mọc cao chừng 7m, thân cò vỏ mịn và láng; Lá tròn. Hoa trắng mọc đơn độc. Quả nhỏ chừng 2.5- 4cm, lúc non màu đỏ nhạt sau đó chuyển dần sang đỏ-tím và đen khi chín hẳn, có mùi rất thơm, thịt trắng, vị vừa chua vừa ngọt như dâu tây. Loài lai tạo ‘lucidum’ cho trái màu vàng.

Ngoài những giống ổi trồng lấy quả ẳn, làm mứt hay nước giải khát còn có những giống đặc biệt trồng làm cây cảnh như Ổi tàu hay Ổi lùn Psidium pumila, cũng có nguồn gốc từ Trung Mỹ, thuộc loại tiểu mộc, cao 2-4 m nhưng thường làm cho nhỏ lại để trồng trong chậu cảnh. Thân mềm, dễ uốn, vỏ thân mỏng, bong từng mảng. Cành phân nhánh dài, mảnh. Lá nhỏ, thuôn dài màu xanh bóng, mềm; mép lá nhăn nheo như gợn sóng; gân lá nổi rõ. Cuống lá tuy ngắn nhưng làm lá rủ. Hoa nhỏ màu trắng, mọc đơn độc ở nách lá, có 5 cánh tràng mềm và dễ rụng, rất nhiều nhị. Quả hình cầu, hiếm gặp.

Thành phần dinh dưỡng của quả:

100 gram phần ăn được chứa:

- Calories                      36-50
- Chất đạm                    0.9-1.0 g
- Chất béo                     0.1-0.5g
- Chất sơ                       2.8-5.5g
- Calcium                      9,1- 17mg
- Sắt                               0.30-0.70mg
- Magnesium                 10-25mg
- Phosphorus                  17.8 -30mg
- Potassium                    284mg
- Sodium                         3mg
- Kẽm                             0.230mg
- Đồng                            0.103mg
- Manganese                   0.144mg
- Beta Carotene (A)        200-792 1U
- Thiamine (B1)              0.046mg
- Riboflavine (B2)          0.03-0.04mg
- Niacin                           0.6-1.068mg
- Pantothenic acid           0.150mg
- Pyridoxine                    0.143mg
- Ascorbic acid (C)         100-500mg

Quả ổi được xem như một trái cây bổ dưỡng, nguồn cung cấp các vitamin A và C (tùy giống 100 gram có thể cho đến 1 gram Vitamin C), đa số vitamin tập trung trong phần thịt sát với lớp vỏ mỏng bên ngoài quả. ổi được dùng ăn sống hay chế tạo thành bánh nhão (custard), kem và nước giải khát, thạch jelly. Tại vùng Châu Mỹ Latin có món tráng miệng thông dụng Cascos de guayaba làm bằng trái ổi, bổ đôi, bỏ ruội, nấu chín trộn chung với cream cheese.

Thành phần hóa học:

Tùy bộ phận, thành phần hóa học có thể thay đổi:

1- Lá chứa:

- Tanins (7-10%) gồm gallotannins, ellagic acid và các chất chuyển hóa, các tannins có thể thủy giải được.

- Tinh dầu (0.31%) trong đó có aromadendrene, beta-bisabolene, caryophyllene,

nerolidiol, selinene, di limonene, các aleohol thơm..

- Các acid hữu cơ như masiinic acid, oleanolic acid, oxalic acid, guaija volic acid,

guajanoic acid, crategolic acid, psidiolic acid, ursolic acid.

- Sterols như beta-sitosterol.

- Flavonoids như Quercetin

(trong lá non và búp có khoảng 7-10% tanins loại pyrogallic và 3% nhựa).

2- Hoa chứa ellagic acid, guaijaverin, leucocyanidin, oleic acid, quercetin

3- Quả ngoài thành phần dinh dưỡng, còn có:

- Các đường hữu cơ (7%) như Fruciose, glucose, galactose, sucrose..

- Các tinh dầu tạo mùi thơm thuộc các nhóm aldehyd và alcohol như ethyl acetate,

butyrate, humulene, myrcene, pinene cinnamic acid.

- Các acid hữu cơ.

- Các sắc tố loại chlorophyll, anthocyanidin.

- Pectins, pectin methylesterase.

4- Rễ và Vỏ thân có arjunolie acid, gallic acid, leucocyanidin, quercetin..

Các nghiên cứu khoa học và dược học:

Đa số các nghiên cứu khoa học và dược học được thực hiện tại các Viện khảo cứu, các Đại học tại Nam Mỹ. Tại Á Châu, Thái Lan là quốc gia chú trọng nhiều nhất về dược tính của Ổi.

- Tác dụng tri tiêu chẩy:

Tác dụng trị tiêu chẩy của lá ổi đã được công nhận trong nhiều nghiên cứu lâm sàng, dược học. Lá ổi được chính thức ghi trong Dược điển Hòa Lan, dùng làm thuốc trị tiêu chảy:

Trong một nghiên cứu lâm sàng về tác dụng trị tiêu chảy nơi 62 trẻ em bị tiêu chảy, sưng ruội do siêu vi (rotaviral enteritis), thời gian lành bệnh ghi nhận là 3 ngày (87.1%), rút ngẵn tương đối rỏ rệi so với nhóm đối chứng (Zhongguo Zhong Xi Jie He Za Zhi Số 20-2000).

Nghiên cứu khác tại ĐH Universade Feral do Hio de Janeiro (Ba Tây) ghi nhận liều nước chiết từ lá ổi 8 microgram/ml có hoãt tính chống lại simian rotavirus gây tiêu chẩy (82.2%) (Journal of Hhnopharmacology Số 99-2005)

Một nghiên cứu, mù đôi, thực hiện tại Thái Lan, dùng bột lá ổi so sánh với tetracycline để trị 122 người tiêu chảy (64 nam, 58 nữ) tuổi 16-55. Liều dùng cho bột lá ổi và tetracycline là 500mg, mỗi 6 giờ trong 3 ngày. Kết quả tương đương cho cả 2 nhóm dùng bột lá ổi và tetracycline (Thử nghiệm T-iest có kết quả tương đương) (Thai Medicinal Plants trang 206).

Trên PubMed có liệt kê khá nhiều nghiên cứu về tác dụng trị tiêu chẩy của lá ổi.

- Tác dụng tri bênh đường ruột:

Ổi còn có mội số đặc tính dược học giúp bổ sung cho tác dụng trị tiêu chẩy. Các filavonoids loại quercetin trong lá có hoạt tính trên sự bài tiết acetylcholine trong ruột (theo kiểu morphine), kích thích cơ trơn ruột. Hoạt tính này do ở tác động của quercetin ngăn chặn càc ions Calcium và ức chế các enzyme liên hệ đến sự tổng hợp prostaglandins giúp giảm những cơn đau bụng do cơ trơn của ruột co thắt. Ngoài ra lá ổi còn tác động vào sự tái-hấp thu nước nơi ruột. Các lectins trong lá ổi có thể gắn vào E. coli (vi khuẩn thường gây ra tiêu chẩy), ngăn chặn vi khuẩn hấp thu vào vách trong của ruội và do đó ngắn ngừa được sự nhiễm trùng ruột.

- Tác dụng kháng sinh. kháng siêu vi và diệt nấm gây bệnh:

Hoạt tính kháng vi trùng của lá ổi được liệt kê trong Fitoterapia Số 73-2002.

- Các trìch tinh từ lá và vỏ thân có tác dụng sát trùng (in vitro) trên các vi khuẩn như Siaphylococcus, Shigella, Salmonella, Bacillus, E.coli, ostridium và Pseudomonas..

- Dịch chiết từ lá bằng nước muối 1:40 có tác dụng diệt trùng trên Staphylococcus aureus.

- Nước ép tươi từ lá ở nồng độ 66% có hoại tính diệt siêu vi Tobacco mosaic.

- Nước trích từ lá ngăn chặn được sự tăng trưởng của các nấm Trichophyton rubrum, T.mentagrophytes và Microsporum gypseum.

Một nghiên cứu tại Universiiy of Petra, Amman (Jordanie) ghi nhận tác dụng ngăn chặn sự phát triển các mụn trứng cá gây ra bởi các vi khuẩn loại Propionibacterium acnes. Hoạt tính được so sánh với dầu tràm (tea tree oil), doxycycline và clindamycin và dùng phương pháp đo vùng ức chế bằng dĩa tẩm hoạt chất (disk diffusion method). Vùng ức chế của dịch chiết lá ổi được xác định là 15.8-17.6mm (kháng P. acnes) và 11.3-15.7mm (kháng S.aureus). Tuy không bằng các thuốc trụ sinh doxycyoline và clindamycin nhưng có thể hữu dụng trong các trường hợp bị mụn trứng cá và không dùng được kháng sinh (American dournal of Chinese Medicine Số 33-2005).

- Tác dụng trên Hệ Tim Mạch:

Nghiên cứu tại ĐH Universidade Federal de Sergipe, Sao Cristovao (Ba Tây) ghi nhận dịch chiết từ lá ổi có nhiều hoạt tính trên hệ Tim mạch và có thể hữu dụng để trị các trường hợp Tim loạn nhịp (Brazilian Journal of Medecìne & Biological Reseach Số 36-2003). Lá ổi có tác dụng ‘kháng oxyhóa’ có lợi cho tim, bảo vệ tim, và cải thiện các chức nắng của tim. Trong 2 thử nghiệm, không chọn trước đối tượng, tại Viện Nghiên cứu Tim Mạch, ghi nhận việc dùng mỗi ngày 450 gram ổi tươi trong 12 tuần liên tục, giúp hạ huyết áp trung bình là 8 điểm, giảm được mức độ cholesterol 9%, giảm triglyeerides được 8% và tăng HDL được 8%. Hoại tính được cho là do Ổi chứa nhiều potassium và nhiều chất sơ có thể tan được (tuy nhiên số lượng ổi cần ăn hằng ngày lên tới 450-900 gram và cần ăn liên tục nên khó có thể theo đuổi việc trị liệu!)

- Tác dung Ha đường trong máu:

Nghiên cứu tại Korea Research Institute of Bioscience and Biotechno logy, Daejeon (Nam Triều Tiên) ghi nhận hoạt tính ức chế men protein tyrosine phosphatase 1B (PTP1B) của dịch chiết lá ổi. Hoạt tính này cho thấy nước lá ổi có tác dụng trị tiểu đường loại 2 (khi thử trên chuột loại Lepr(db), liều 10mg/kg gây hạ glucose trong máu khá rõ rệt) (Journal of Eihnopharmacology Số 96-2005).

Trong một nghiên cứu tại Taiwan trên chuột, nước ép từ quả tươi chích qua màng phúc toan với liều 1.0g/kg giúp làm hạ đường trong máu tạo ra bởi alloxan. Hoạt tính hạ đường này không kéo dài và yếu hơn chlorpropamide, metformin rất nhiều nhưng ăn ổi tươi cũng có thê hữu ích cho người tiêu đường (American Journal of Chinese Medicine SỐ 11-1983).

Nghiên cứu tại ĐH Putra, Malaysia trên chuột về tác dụng làm hạ glucose trong máu của quả ổi: 40 chuột đực được chia thành 4 nhóm trong đó có các nhóm: đối chứng không bệnh, đối chứng bị gây tiểu đường, nhóm dùng nước ổi và nhóm trị bằng glibenclamide. Thử nghiệm kéo dài trong 5 tuần, 3 nhóm chuột bị gây tiểu đường bằng streptozotocin. Trong thời gian thử nghiệm, các nhóm đối chứng chỉ được cho ăn bình thường; nhóm bệnh tiểu đường dùng (ổi được cho ăn thêm mỗi ngày 0.517g ổi, nhóm tiểu đưởng dùng glibenclamide 5mg/kg mỗi ngày. Kết quả cho thấy có sự giảm hạ nồng độ glucose trong máu nơi chuột dùng ổi từ các tuần 3 (12.3%), tuần 4 (24.79%) và tuần 5 (7.9%) so với nhóm đối chứng. So sánh với nhóm dùng thuốc glibenclamide, tác động trung bình tương đối khác biệt ở tuần 4 (p=0.029), nồng độ glucose trong máu thay đổi 25.88 %.

Các tác giả kết luận: Ổi tươi, chứa lượng cao các chất sơ (hòa tan và không hòa tan) có thể giúp hạ tiểu đường một cách an toàn. (Asia Pacific Journal of Clinical Nuirition Số 13 (Suppl)-2004)

Các phương thức sử dụng trong dân gian:

Các thành phần của cây ổi như lá, rễ, vỏ thân được sử dụng khá phổ biến làm thuốc tại nhiều nơi trên thế giới, kể cả Việt Nam.

- Tại Việt Nam: Theo Y học dân gian, Ổi có vị chát, hơi ngọt, tính bình. Các phần dùng làm thuốc gồm lá, vỏ thân, thu hái và phơi nắng cho khô, cất giữ để dùng khi cần. Thường dùng 15-30 gram lá dưới dạng thuốc sắc. Ổi có tác dụng thụ liễm (làm săn da), cầm tiêu chảy, chống sưng tấy và cầm máu; Ổi được dùng để trị các chứng đau bụng, tiêu chảy do tiêu hóa yếu, sưng ruột, kiết ly do nhiễm trùng (có thể dùng lá đã phơi khô, tán thành bột hay sắc lá tươi lấy nước uống). Ổi còn được dùng trị chấn thương, ngứa ngoài da (giã nhuyễn lá tươi, đắp lên vết thương). Một phương thức trị zona (giòi ăn) là lấy 100g lá búp non, trộn với 10g phèn chua, 1g muối, giã nát chung, thêm nước vừa đủ thành khối nhão, thoa ngoài.

- Tại Ấn độ: Theo Y học Ayurvedic, Ổi hay Amrud, (tiếng Phạn = Mansala): Vỏ cành dùng trị tiêu chảy, đau bụng, đau bao tử; Lá để trị ho và lở trong miệng. Quả, sau khi bỏ hột, có tác dụng nhuận trường.

- Tại Trung Hoa: Y học cổ truyền không xem Ổi là vị thuốc, nhưng tùy địa phương, việc dùng ổi trị bệnh cũng khá phổ biến. Ổi được gọi là Phan thạch lựu (Fan Shi liu) hay Phan đào (Fan-tao) (Phan = từ ngoại quốc đến).

+ Lá ổi được xem là có tính bình, vị ngọt; dùng để ngừa kiết ly, trị tiêu chảy bằng cách đun 50g lá tươi trong 250 ml nước đến sôi, uống trong ngày chia làm nhiều lần. Khi bị thương, nhai vài lá ổi tươi, đắp để cầm máu.

+ Quả ổi được xem là có tính ấm, vị ngọt; dùng tri tiêu chảy, tiểu đường và trĩ.

Để tri tiểu đường: xay 90g ổi tươi bằng blender, lấy nước cốt, uống ngày 3 lần trước bữa ăn.

Để trị Trĩ: Đun 500g trái tươi với 1 lí nước, đến khi cô đặc, thoa và rửa búi trĩ mỗi ngày 2-3 lần. Có thể dùng phương thức này để trị ngứa ngoài da.

- Tại Thái Lan: Ổi hay Farang, Chumpo cũng được dùng để trị tiêu chảy (Búp lá non được sao đến vào, rồi sắc lấy nước uống, Quả non cắt thành lát, nấu lấy nước uống). Ngoài ra lá được dùng để che bớt mùi rượu, trị sưng lợi, vết thương lâu lành.

- Tại các quốc gia Trung và Nam Mỹ như Brazil, Peru, Cuba.. Thổ dân đã dùng nước sắc từ lá hay vỏ thân để trị tiêu chảy, súc miệng trị đau cổ họng và điều hòa kinh nguyệt. Lá tươi dùng nhai khi chảy máu nơi chân rằng, hơi thở khó chịu. Lá còn dùng nấu lấy nước giúp vệ sinh phụ khoa, trị huyết trắng và giúp làm sẵn chắc vách bộ phận sinh dục sau khi sanh nở. Hoa nghiền nát, đắp trị đau mắt, chói nắng.

Ghi chú:

Tại các Chợ Thực phẩm Hoa Kỳ có bán những trái cây, cũng gọi là Guava, hình dạng rất giống với Ổi, cũng lớn cỡ 2.5-7.5cm đường kính, còn gọi là Pineapple guava hay Feijoas. Trái này không liên hệ đến nhóm Ổi, tuy cùng gia đình thực vật Myrtaceae.

Cây Feijoa, tên khoa học Feijoa sellowiana cho quả, khác với ổi ở chỗ thịt nhão như thạch (xu-xoa), không cứng chắc nên phải ăn bằng cách xúc bằng muỗng. Feijoa cũng phát xuất từ Nam Mỹ và đặc biệt là cũng như Kiwi, phát triển tốt nhất tại Tân Tây Lan. Feijoa được trồng nhiều tại California và tuy chứa nhiều Vitamin C, Feijoa không có các tính chất trị liệu như Ổi.

Tài liệu sử dụng:

- The Oxford Companion to Food (Alan Davidson).

- Fruits as Medioine (Dai Yin-Fang & Liu Cheng-jun).

- Uncommon Fruits & Vegetables (Elizabeth Schneider).

- Encyclopedia of Herbs (Deni Brown).

- Thuốc Nam Trên Đất Mỹ (Tập 2).

- Từ điển Cây Thuốc Việt Nam (Võ văn Chỉ).

- Thai Medicinal Plants (Farnsworth & Bunyapraphatsara).

- Tropical Plant Database (Rain-Tree Nutrition Co).

Bài viết trích từ nguồn: Tự Điển Thảo Mộc Dược Học - DS. Trần Việt Hưng



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CÂY RAU LÀM THUỐC - KHOAI NƯA

Khoai nưa hay Khoai na - Amorphophallus paeoniifolius (Dennst.) Nicols, = A. campanulatus (Roxb.) Blume ex Decne, thuộc họ Ráy - Araceae. Cây thảo sống lâu năm, có thân củ nằm trong đất; củ hình bán cầu, rộng đến 20cm, mặt dưới lồi mang một số rễ phụ và có những nốt như củ khoai tây chung quanh có 3-5 mấu lồi; vỏ củ màu nâu, thịt trắng vàng và cứng. Lá mọc sau khi đã có hoa, thường chỉ có một lá có cuống cao tới 1,5m được gọi là dọc (cọng) dọc màu xanh sẫm có đốm bột; phiến chia làm 3 nom tựa như lá Ðu đủ. Cụm hoa gồm một mo to màu đỏ xanh có đốm trắng, mặt trong màu đỏ thẫm, bao lấy một bong mo là một trục mang phần hoa cái ở dưới, phần hoa đực ở trên. Khoai nưa phân bố ở Ấn độ, Myanma, Trung quốc, Việt nam, Campuchia, Malaixia, Inđônêxia, Philippin. Ở nước ta, khoai nưa mọc hoang rải rác ở khắp các vùng rừng núi, được bà con nhiều địa phương đem về trồng từ lâu đời ở trong vườn, quanh bờ ao, dọc hàng rào và trên các đồi để làm thức ăn cho người và gia súc, gặp nhiều ở các tỉnh Lạng s...

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.