Còn gọi là cây Gỏi cá (polyscias fruticosa (L.) Hormas) thuộc họ Nhân sâm (Araliaceae).
Mô tả: Cây nhỏ, cao đến 1,5 - 2m; thân nhẵn, ít phân nhánh. Lá kép, mọc so le, có bẹ, phiến lá xẻ 3 lần lông chim, mép có răng cưa không đều, đầu nhọn.
Cụm hoa chùy ở ngọn, gồm nhiều tán, trên đó có nhiều hoa nhỏ màu trắng xám. Quả dẹt, màu trắng bạc. Mùa hoa tháng 1-7.
Bộ phận dùng: Rễ, thân, lá. Thường dùng nhất lá rễ.
Nơi sống và thu hái: Cây có nguồn gốc ở các đảo Thái Bình Dương, nay được trồng khắp nơi chủ yếu làm cảnh cùng với một số loài Đình lăng khác. Định lăng ưa đất cao ráo, hơi ẩm, nhiều màu. Trồng bằng cành hoặc bằng hạt, chủ yếu là giâm cành... Chọn những cành già, chặt thành đoạn ngắn 10 - 20cm, cắm nghiêng xuống đất. Trồng vào tháng 2 - 4 hoặc tháng 8 - 10. Lá Định lăng có thể dùng ăn gỏi cá và cũng dùng làm thuốc. Rễ cây được thu lượm từ những cây đã trồng từ 3 năm trở lên (cây trồng càng lâu năm càng tốt), đem rửa sạch, phơi khô ở chỗ mát, thoáng gió để đảm bảo mùi thơm và phẩm chất.
Hoạt chất và tác dụng: Về thành phần hóa học, có glucozit, ancaloit, saponin, tanin, 13 loại axit amin, vitamin B1. Rễ dùng làm thuốc bổ, có tác dụng tăng cường sức dẻo dai của cơ thể, tăng biên độ và tần số hô hấp, tăng tiết niệu, làm tử cung co bóp được.
Đông y xem Đinh lăng có vị ngọt, tính bình, có công năng bổ năm tạng, tiêu thực, lợi sữa, dùng trợ cơ thể suy nhược, tiêu hóa kém, phụ nữ sau khi đẻ ít sữa. Còn dùng làm thuốc chữa ho, ho ra máu, thông tiểu tiện, chữa kiết lỵ. Thân và cành dùng chữa phong thấp, đau lưng. Tác dụng bồi dưỡng của Đỉnh lăng gần như Nhân sâm, tam thất.
Cách dùng: Rễ khô tán bột, ngày dùng 2g trở lên, hoặc dùng 1-6g dạng thuốc sắc. Có thể dùng rễ tươi ngâm rượu uống. Lá tươi băm nhỏ, cùng với bong bóng heo, trộn với gạo nếp, nấu cháo ăn lợi sửa. Để chữa các bệnh khác, ta dùng thân cành sắc uống mỗi ngày 30-50g.
Trích nguồn: CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG của PTS. Võ Văn Chi
Nhận xét
Đăng nhận xét