Còn gọi lá Kẻ hoa đỏ, Ké khuyết (Urene lobata L.) thuộc họ Bông (Malvaceae).
Mô tả: Cây nhỏ, cao chừng 1m hay hơn. Cành có lông. Lá mạc so le, chia thùy nông, mặt trên xanh, mặt dưới xám, có lông, mép khía răng. Hoa màu hồng, nom như màu hoa Đào, mọc riêng lẻ hoặc thành đôi ở kẽ lá. Quả hình cầu dẹt, có lông, phía trên có nhiều gai móc. Hạt có vận dọc.
Bộ phận dùng: Toàn thân.
Nơi sống và thu hái: Cây mọc hoang khắp các tỉnh đồng bằng, trên các bãi trống, ven đường đi, người ta lấy toàn cây hoặc lá, dùng tươi hay phơi khô. Có thể thu hái cây lá quanh năm, tốt nhất là vào mùa hạ, mùa thu.
Hoạt chất và tác dụng: Chưa có tài liệu nghiên cứu các hoạt chất. Theo Y học cổ truyền, cây có vị ngọt nhạt, tính lương, không độc. Thường được dùng làm thuốc chữa lỵ, chữa mụn nhọt, lở ngứa, khí hư, đau sưng, rắn độc cắn.
Cách dùng: Nước sắc rễ và thân sao vàng chữa mụn nhọt, ngứa lở (dùng thay quả Ké đầu ngựa). Phối hợp với lá cây Ba chẽ để sắc uống chữa lỵ. Ngày dùng 20-40g. Có nơi dùng rễ làm thuốc trị hen suyễn. Phối hợp với Mần tưới, Chỉ thiên, Mã đề chữa rong huyết. Phối hợp với lá Chua ngút, Bòng bong lá to chữa khí hư. Lá giã nát đắp lên những chỗ đau sưng hoặc rắn độc cắn.
Trích nguồn: CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG của PTS. Võ Văn Chi
Xem thêm: CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Ké Hoa Đào
Nhận xét
Đăng nhận xét