Còn gọi là Xấu hổ, Thẹn hay Trinh nữ (Mimosa pudica L.) thuộc họ Trimh nữ (Mimosaceae).
Mô tả: Cây nhỏ, phân nhánh nhiều, có gai hình móc. Lá kép lông chim chẵn 2 lần, những cuống phụ xếp như hình chân vịt, khẽ đụng vào là cụp lại. Mỗi lá mang 15-20 đôi lá chét. Hoa màu tím đỏ, nhỏ, tập hợp thành hình đầu, có cuống chung dài, ở kẽ lá. Cụm quả hình ngôi sao, quả thắt lại ở giữa các hạt, có nhiều lông cứng. Mùa hoa quả: tháng 6 – 8.
Bộ phận dùng: Phần cây trên mặt đất đã phơi hay sấy khô, hoặc lá, hoặc rễ.
Nơi sống và thu hái: Cây mọc hoang ở ven đường, các nương bãi ở hầu khắp các tỉnh đồng bằng. Người ta đào rễ quanh năm, rửa sạch, thái mỏng, phơi khô. Cành lá dùng tươi hay phơi khô.
Hoạt chất và tác dụng: Trong rễ cây có ancaloit là mimosin, trong lá và quả đều có selen, hàm lượng selen trong lá rất cao vào mùa hè và giảm nhanh, trong khi đó hàm lượng selen trong quả lại tăng. Mắc cỡ có tác dụng ức chế thần kinh trung ương, trấn kinh, giảm đau và giải độc axit axenic.
Trong Y học cổ truyền, Mắc cỡ có vị đắng, tính mát, có công năng an thần, dịu cơn đau, trừ phong thấp. Thường được dùng trị mất ngủ, tâm thần không yên, phong thấp tê bại.
Cách dùng: Lá sắc uống hàng ngày làm thuốc ngủ, dịu thần kinh: mỗi tối dùng 6 - 12g. Rễ cây rang lên, tẩm rượu rồi lại sao vàng nấu nước uống chữa đau ngang thắt lựng, nhức mỏi gân xương: ngày dùng 20 - 30g sắc uống, dùng riêng hoặc phối hợp với rễ Cúc Tần và Bưởi bung (mỗi vị 20g), rễ Đinh lăng và Cam thảo dây (mỗi vị 10g). Kinh nghiệm dân gian thường dùng sắc uống thay trà hàng ngày trị bệnh nhức mỏi và sưng phù. Hạt của nó có thể làm cho người ta mửa được.
Nhận xét
Đăng nhận xét