Mãng cầu xiêm (Annons muricata L.) thuộc họ Na (Annonaceae).
Mô tả: Cây gỗ nhỏ hay lớn, cao tới 6 - 8m, vỏ có nhiều lỗ bì nhỏ, nâu. Lá mọc so le, nguyên, hình trái xoan ngọn giáo, có mũ, nhẵn, thơm, có 7 - 9 cặp gân phụ. Hoa đơn độc ở thân hay nhánh già, to, 3 lá đài nhỏ, màu xanh, 3 cánh hoa ngoài mầu xanh vàng, 3 cánh hoa trong màu vàng, hơi nhỏ hơn. Nhị và nhụy làm thành một khối tròn cỡ 1,5cm. Quả là một quả mọng kép lớn, hình trứng, dài 25 - 30cm, màu lục hay vàng vàng, phủ những mũi nhọn thẳng hay cong chứa nhiều hạt màu nâu đen.
Bộ phận dùng: Quả, lá và hạt.
Nơi sống và thu hái: Gốc ở quần đảo Ăng-ti (Antilles), được nhập trồng lấy quả ăn. Cây ra hoa kết quả quanh năm. Quả xanh phơi khô, tán bột, quả chín dùng ăn tươi. Lá thường dùng tươi. Hạt lấy ở quả chín.
Hoạt chất và tác dụng: Thịt quả trắng, mùi dễ chịu, vị, dịu, hơi ngọt, giống mùi Dừa, Dâu tây. Thịt quả, lẫn với nước và đường, rồi đánh như đánh trứng gà, làm thành một loại sữa dùng uống giải khát, bổ và chống bệnh hoại huyết (scorbut), nó có tính kích dục. Lá chứa một tinh dầu mùi dễ chịu, một lượng khá cao clorua kali, tanin, một ancaloit và một lượng nhỏ nhựa. Lá được dùng làm gia vị, thường dùng làm thuốc đắp. Nếu hãm uống vào buổi tối, lá có tính chất làm dịu tương tự Long não. Lá và vỏ cùng dùng làm thuốc chữa sốt, ỉa chảy và trị giun sán. Hạt chứa ancaloit nhưng không độc, mặc dầu nó có tính gây nôn. Hạt thường dùng làm thuốc săn da. Nhiều người thường giã nhỏ hòa lấy nước gội đầu trừ chấy.
Quả còn xanh, phơi khô, tán bột dùng chữa kiết lỵ và sốt rét.
Cách dùng: Quả Măng cầu xiêm là loại quả thông dụng ở các tỉnh Phía Nam nước ta. Ta thường dùng tươi làm kem sinh tố với các loại quả khác, hoặc dùng riêng làm nước uống giải khát, giải nhiệt. Quả xanh, phơi khô, tán bột sắc uống. Hạt thường dùng tán bột hay giã lấy nước trừ chấy và sâu bọ. Lá thường dùng tươi, với liều mỗi lần khoảng 20 lá.
Trích nguồn: CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG của PTS. Võ Văn Chi
Xem thêm: MÃNG CẦU XIÊM - Một trái cây hữu dụng
Nhận xét
Đăng nhận xét