Còn gọi là Xạ can, Lưỡi kiếm (Belamcanda chinensis (L.) DC.) thuộc họ La đơn (Iridaceae).
Mô tả: Cây thảo, sống dai. Thân rễ mọc bò. Thân nhỏ, mang lá mọc thẳng đứng, dài tới 1m. Lá hình mác dài, hơi có bẹ, mọc xen kẽ, thành 2 vòng (lá xếp 2 dãy), gân lá song song.
Cụm hoa có cuống dài 20 - 40cm. Hoa có cuống: bao hoa 6cm màu vàng cam, điểm đốm tía. Quả nang hình trứng, chứa nhiều hạt nhỏ hình cầu, màu xanh đen, bóng.
Bộ phận dùng: Thân rễ (thường gọi là củ), có đốt ngắn màu vàng nhạt hoặc vàng nâu, ruột trắng, cứng.
Nơi sống và thu hái: Cây mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi làm cảnh và lấy thân rễ làm thuốc. Trồng bằng nhánh của thân rễ vào mùa xuân. Thu hái vào mùa thu. Dùng tươi (rửa sạch, giã với ít muối) hoặc rửa sạch phơi khô hay sấy khô, khi dùng ngâm nước vo gạo 1-2 ngày cho mềm, thái mỏng, phơi khô dùng dần.
Hoạt chất và tác dụng: Trong thân rễ có một glycozit là belamcandin và tectotridin; còn có một glycozit khác là irisin và shekanin.
Dược điển Việt Nam in lần thứ nhất tập II có ghi: Rẻ quạt có vị đắng, tính mát, vào 2 kinh can phế. Có công năng thanh nhiệt, giải độc, tán huyết, tiêu đờm. Chủ trị: viêm họng, sưng đau, ho nhiều đờm rãi, kết đờm hạch, sang độc sưng đau, trong tai đau nhức. Còn dùng chữa sốt, đại tiện không thông, sưng vú, tắc tia sữa, đau bụng khi thấy kinh, khử lọc máu. Cũng còn dùng chữa vết thương rắn cắn, đắp vết thương, trị đau răng.
Cách dùng: Ngày dùng 3 - 6g dạng thuốc sắc hoặc bột, làm viên ngậm uống, hoặc dùng giã tươi với một ít muối, vắt lấy nước ngậm uống dần, bã đắp ngoài (10-20g).
Để chữa ho, viêm họng, có thể phối hợp với rễ Mạch môn, Húng chanh, hoa Ðu đủ đực (giã nhỏ, hấp cơm) hoặc rễ Cam thảo đất, rễ Đậu săng (giã ngậm).
Trích nguồn: CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG của PTS. Võ Văn Chi
Nhận xét
Đăng nhận xét