Ta thường trổng nhiều loại Bí và có khi gọi tên trùng nhau. Có thể phân biệt Bí ngô - Cucurbita bepo L. là loài cây trong họ Bầu bí - Cucurbitaceae, có thân mọc bò hay leo nhờ tua cuốn, có lá chia thuỳ hay chia cắt nhiều thành thuỳ nhọn với mặt lá lớm chởm lông nên rất nhám; quả thường dài, có lông như gai, cuống quả có 5 cạnh, không phình rộng ở chỗ đính. Cây gốc ở châu Phi nhiệt đới, được trồng nhiều và có nhiều giống trồng.
Một loài khác thường gọi là Bí đỏ hay Bí rợ - Cucurbita maxima Duch., cũng là cây thảo hằng năm, mọc khỏe có tua cuốn; lá to, ít nhám hơn; khía cạn hay không khía; cuống quả không có cạnh; quả rất to, có thể nặng tới 50kg. Cây gốc ở miền nhiệt đới Á Châu.
Còn một loài Đí đỏ, có thể gọi là Bí đó thơm - Cucurbita moschata Duch., cũng là cây thảo mọc hằng năm, có lá bóng, hình tim, tù, có răng, các thuỳ hình góc, màu lục sẫm thường có đốm trắng; cuống quả có rãnh, phình rộng ở chỗ đính: quả thường dài, hình trụ hay hình chuỳ, vỏ quả màu lục đen, vàng hay đỏ, thịt quả có nhiều bột. Cây gốc ở vùng Tây Á, hiện cũng được trồng nhiều.
Ở nước ta, thường nói nhiều đến loài đầu tiên với tên gọi chung là Bí ngô, Bí đỏ, Bí rợ, Bù rợ. Bí ngô được trồng nhiều ở các vùng đất bãi ven sông, đất soi bãi đất trồng màu, trên các nương rẫy. Đồng bào các dân tộc miền núi thường trồng nhiều.
Người ta thường sử dụng các ngọn nón và hoa của cây Bí ngô và Bí đỏ để làm rau ăn. Nên hái họa thật sớm vì khi ánh sáng mặt trời chiếu lên trên cây thì hoa héo ngay, chỉ nên lấy hoa đực, trừ họa cái cho nó ra quả. Hái hoa hoặc ngọn non của các chồi cũng nên để ở chỗ mát để giữ cho rau lâu héo. Khi làm rau, phải tước bỏ lớp vỏ ngoài của cây hay của cuống họa vì có lông. Người ta thường dùng hoa Bí và ngọn non để luộc chấm với nước cá kho, tôm kho hay thịt kho. Đem xào với tỏi, ăn cũng ngon.
Quả bí xanh còn nơn thường được dùng xào riêng hoặc xào lẫn với thịt để ăn, hoặc dùng nấu canh với tôm khô, thịt nạc. Cũng có thể nấu với nước cốt dừa và lạc ăn cũng béo và thơm ngon. Quả bí già dùng xào hoặc nấu canh.
Năm 1979, Viện Chăn nuôi đã cho biết thành phần hoá học của bí ngô Việt Nam như sau (tính theo phần trăm):
Gần đây, cũng có tài liệu cho biết, để cung cấp cho cơ thể 25 calo, ta cần dùng 74g bí đỏ, trong đó chứa 1,94g protid 3,2g glucid. Quả bí đỏ còn chứa một số acid amin (leucin lyrosin, peporesin) và các vitamin B, tiền sinh tố A và vitamin PP, vitamin C.
Bí đỏ, bí ngô là thức ăn cho chất bổ dưỡng, lại có tính chất làm dịu, giải nhiệt, giải khát, làm mềm, trị ho, nhuận tràng và lợi tiểu. Chúng được chỉ định dùng trong trường hợp bị viêm đường tiết niệu, bệnh trĩ, viêm mật, kiết lỵ, mất ngủ, suy nhược, suy thận, chứng khó tiêu, táo bón, đái đường và các bệnh về tim. Thường dùng quả giã tươi lấy dịch uống hàng ngày vào sáng sớm cho nhuận tràng. Hoặc nấu xúp để ăn. Dùng ngoài để đắp trị bỏng và các chứng viêm, áp xe, hoại thư lão suy. Món chè bí đỏ nấu với đậu đỏ, đậu đen, lạc, nếp là món ăn quen thuộc dùng để bổ dưỡng, lại vừa làm thuốc trị đau đầu, mất ngủ, suy nhược thần kinh, đau màng óc, viêm màng não...
Hạt bí ngô thường dùng rang ăn, lại có tác dụng tẩy giun sán không kích thich và không độc (rang ăn cho đến no rồi uống nhiều nước pha muối cho dễ đi ngoài để tẩy giun ra). Người ta còn dùng hạt bí đỏ, bí ngô phối hợp với vỏ rễ lựu và hạt cau già làm thuốc tẩy sán sơ mít. Nhũ tương được tạo thành khi ta nấu các hạt đã giã ra và nghiền nhỏ, có tính chất làm dịu và giải nhiệt, dùng trị mất ngủ, đau do viêm đường tiết niệu. Cuống quả bí đỏ, bí ngô dem phơi khô để dành phòng khi bị ngộ độc do thịt, cá, thì đem tán thành bột mà uống để giải độc.
Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành
Xem thêm: TRỊ GIUN SÁN - Hạt Bí Ngô
Xem thêm: CÂY RAU CÂY THUỐC - BÍ NGÔ
Xem thêm: CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - BÍ RỢ
Nhận xét
Đăng nhận xét