Khế - Averrhoa carambola L., thuộc họ Chua me - Oxalidaceae. Cây gỗ cao tới 10m. Lá kép lông chim gồm 3 đến 5 đôi lá chét. Cụm hoa ngắn, thanh chùm xim ở kẽ các lá. Hoa màu hồng hay màu tím. Quả to, tiết diện hình ngôi sao năm múi.
Khế gốc ở Malaixia, được trồng ở các nước nhiệt đới và cận á nhiệt đới. Khế được trồng ở khắp nước ta và do trồng trọt mà người ta tạo ra nhiều giống trồng (Khế chua, Khế ngọt ...)
Khế múi ít chua, có hàm lượng acid oxalic là 1%, và khi chín muồi, là món ăn được nhiều người ưa thích. Người ta thường dùng Khế ăn sống chấm mắm, nấu canh chua với tôm tép và cá. Quả chín có thể chế mứt. Có khi người ta còn xắt lát Khế múi phơi khô để dành vào lúc mưa bão thiếu rau để nấu canh chua hoặc xào với thịt, tôm tép làm món ăn. Người ta đã xác định được trong thành phần của Khế múi, có các chất theo tỷ lệ phần trăm như sau: nước 92,0; protein 0,3; lipid 0,4; glucid 5,7; cellulose l; tro 0,3; có các nguyên tố ví lượng calcium 8mg%; phosphor 15mng%; sắt 0,9; natri 2; và kali 181; còn có các vitamin: A 135mg; B₁ 0,04; B₂ 0,03; P 0,3 và C 32.
Ngoài Khế múi, ở các tỉnh phía Nam nước ta, nhân dân còn trồng Khế dưa chuột (Averrhoa bilimbi L.) cũng gốc ở Malaixia. Cây cao tới hàng chục mét. Quả hình trụ, dài 5-10cm, màu lục vàng và trong suốt, khi chín rất chua (hàm lượng acid oxalic là 6%) nên ít được ăn tươi. Người ta thường bảo quản dưới dạng xirô hoặc muối dưa hay ngâm nước muối, nước mắm để ăn.
Cả người phương Đông lẫn phương Tây đều sớm biết công dụng y học của Khế, và tên của người thầy thuốc và triết gia Ả rập Averrhoes đã được dùng để đặt tên cho cây Khế. Averrhoes (ở thế kỷ 12) đã phát hiện Khế là một dược liệu tốt, dùng trộn với hồ tiêu để làm toát mồ hôi, giã nhỏ rồi đắp lên người để làm tiêu tan sự rã rời, bải hoải, còn dùng chữa bệnh ngứa, kích thích hoạt động của mắt, chữa ho, chữa sưng hạch tiết nước bọt, viêm họng, đau thấp khớp, phù thũng.
Đông y xem Khế là vị thuốc có vị chua gắt, tính bình, có tác dụng thanh nhiệt, sinh tân dịch, trị thương tích, giải uế. Thường được dùng trị cảm, sốt nóng, khát nước, giải độc, lợi tiểu... Chữa dị ứng do tiếp xúc với sơn, dùng quả Khế xắt miếng xát hay dùng lá vò xát. Lá khế (có thể thêm vỏ cây khế) nấu nước, trong uống ngoài đắp rồi tắm chữa lở sơn, mẩn ngứa, mày đay. Chữa ngộ độc, dùng nước khế ép uống thật nhiều. Chữa đái không thông, dùng 7 quả khế chua, cắt mỗi quả lấy một miếng ở 1/3 phía gần cuống, đổ vào một bát nước, sắc còn nửa bát, uống vào lúc còn nóng. Lại lấy một quả khế và một củ tỏi cũng giã đều, đem đắp vào rốn thì đái thông. Ăn khế bị ê răng, nhai một nắm lá khế là hết.
Lá khế sao thơm sắc uống chữa sốt nóng, cảm nắng, đái ít. Với trẻ em lên sởi dùng lá khế (và vỏ cây khế) sắc uống thúc sởi mọc đều, nấu nước tắm để tiệt nọc sởi sau khi bay hết. Nếu bị ho khan, ho đàm, thì lấy mấy chùm hoa Khế tẩm rượu gừng sao thơm sắc uống.
Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành
Xem thêm: CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Khế
Xem thêm: CÂY QUẢ CÂY THUỐC - KHẾ
Nhận xét
Đăng nhận xét