Nhân dân ta thường ăn nhiều loại măng của nhiều loài cây thuộc phân họ Tre trong họ Lúa - Poaceae như: Tre mỡ (Bambusa vulgaris Schrad. Ap. Wendl.), thường trồng, Tre trổ (Bambusa vulgaris Schrad, ap. Wendl. var. Aureo-variegata Hort.) có thân đẹp, Tre là ngà (Bambusa blumeana Schult.), Tre vầu (Bambusa nutans Wall. ap. Munro), Tre gai rừng (Bambusa arundinacea Retz.), Tre tầu (Gigantochloa verticllata Munro), Trúc cần câu, Trúc đen (Phyllostachys nigra (Lodd.) Munro var. henonis (Mitf.) Stapf ex Rendle = P. puberula Mak.), Dang (Den drocalamus sp.), Mai (Sinocalamus giganteus (Munro) A. Camus), Tầm vông (Dendrocalamus strictus (Roxb) Nees), Tre mạnh tông (Dendrocalamus flagellifer Munro), Nứa (Taeniostachyum dulloa Gamble), Le (Oxytenanthera spp.).
Thường dùng nhiều là măng Tre. Tre mọc hoang trong rừng hoặc được trồng nhiều ở các thôn xóm để lấy thân tre dùng trong xây dựng, làm dụng cụ... và lấy măng tre dùng ăn và lấy lá tre làm thức ăn cho, trâu bò.
Măng tre là một nguồn thực phẩm quan trọng. Người ta thường dùng măng tre mạnh tông vì măng rất ngon và ít đắng. Còn có loại măng đắng (như măng Le, măng Vầu đắng) đều chứa acid cyanhydric. Khi ăn phải luộc kỹ, rồi rửa lại nhiều nước cho sạch. Thường thì măng bán ở chợ đều đã được luộc. Còn ở nông thôn đồng bằng hay miền núi, người ta thường dùng măng tươi để nấu ăn... Có thể thái lát hay thái sợi để xào thịt, xào trứng, hoặc xắt thành khoanh theo chiều ngang để hầm với các loại thịt như thịt lợn (giò lợn, xương lợn), thịt gà, thịt vịt. Nhân dân thường nhơi măng cho khô để dùng dần; măng khô cũng dùng kho với thịt lợn, nấu với thịt vịt và hầm chân giò v.v… Cũng có thể dùng Măng muối chua như dưa chua để dùng dần làm nộm, xào với trứng, với thịt các loại, xào với Cải bắp, xào Cà tím, Cà chua. Có nhiều cách chế biến món ăn từ măng.
Trong Y học dân tộc, người ta thường dùng nhiều bộ phận của Tre để làm thuốc như lá Tre (Trúc diệp), nước măng Tre (Trúc lịch), phoi Tre (Trúc nhự) và phấn trong cây Tre (Trúc hoàng). Còn măng Tre ít được sử dụng.
Măng Tre mỡ có vị đắng ngọt, mát, có tác dụng giải nhiệt tâm, tỳ, vị, giáng hoả, tiêu đàm, mát gan, chữa nóng nhiệt. Liều dùng 20-30g, dạng thuốc sắc, phối hợp với các vị thuốc khác.
Người tỳ vi hư hàn hoặc đang dưỡng bệnh đều kiêng ăn măng vì khó tiêu. Người bị bệnh sốt rét cũng vậy, ăn vào dễ tái phát.
Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành
Xem thêm: Chữa Cảm Sốt - Trúc Nhự
Nhận xét
Đăng nhận xét