Mướp, mà hai loài quen thuộc là Mướp khía - Luffa acutangula (L.) Roxb., và Mướp ta, Mướp hương - Luffa cylindrica (L.) Roem, đều thuộc họ Bầu bí - Cucurbitaceae. Chúng đều là những cây thảo leo, có lá mọc so le, dạng tim, có 5-7 thuỳ có răng. Hoa đơn tính, các hoa đực thành chùm đạng chuỳ, các hoa cái mọc đơn độc. Quả dài 25-30cm hay hơn, rộng 6-8cm, thuôn hình trụ, khi già thì khô, bên trong có nhiều xơ dai.
Loài Mướp khía có lá hơi chia thùy, hoa nhạt mầu hơn, quả có khía (cạnh lồi nhọn). Còn Mướp ta hay Mướp hương có lá chia 5 thuỳ, quả không có khía, không có góc.
Nhân dân ta thường trồng mướp vào mùa Xuân để lấy quả vào mùa hè, mùa thu. Quả mướp non có thịt trắng và vị nhạt, thường dùng nấu canh với thịt, tôm hay lạc giã nhỏ, hoặc xào ăn với thịt, tôm.
Nhiều bộ phận của cây muớp được sử đụng làm thuốc:
1. Quả mướp có vị ngọt, tính bình, có tác dụng lợi tiểu, tiêu đờm, làm mát máu, giải độc, chứa chứng đậu sởi, thông kinh mạch, thông sữa, khỏi lở sưng, đau nhức và bổ khí, an thai. Nó có tính chất làm kích thích sự tiết sữa ở các bà mẹ nuôi con và tăng cường sự tuần hoàn của máu. Mặt khác, nó có thể xem như vị thuốc làm dịu, vì nó có một lượng lớn chất nhầy. Phụ nữ để ít sữa thường nấu mướp với chân giò lợn để ăn...
2. Xơ mướp có vị ngọt, tính bình, có tác dụng kháng viêm, thông mạch, lợi tiểu. Được chỉ định dùng trị đau thấp khớp, chứng đau cơ, đau ngực, mất kinh, viêm vú, tắc tia sữa, phù thũng và dùng cầm máu.
- Chữa tắc tia sữa, dùng quả mướp cả hạt khô, đốt tồn tính, tán bột uống với rượu, mỗi lần 8g, và dùng xoa đắp ngoài sẽ thông.
- Phụ nữ kính nguyệt không thông hoặc hành kinh không được, dùng một quả mướp khô đốt tồn tính, tán bột uống vào lúc sáng sớm với rượu.
- Trĩ ra huyết, trực tràng ra huyết, phụ nữ xuất huyết tử cung, dùng xơ mướp đốt tồn tính, tán bột, ngày uống 3 lần, mỗi lần 2g.
3. Lá mướp vị đẳng và chua, tính hơi tanh, có tác dụng kháng viêm, làm long đờm, chống ho. Thường dùng trị họ, họ gà, đau đầu khát nước vào mùa hè. Dùng ngoài trị chảy máu vết thương, bệnh ecpet mảng tròn, chốc lở.
- Chữa trẻ em lở đầu, dùng lá Mướp tươi giã nhỏ vắt lấy nước cốt tẩm vào. Để trị vết loét lâu bồi, dùng lá Mướp khô đốt tồn tính, tán bột mịn, rắc lên vết thương ngày 1-2 lần (sau khi đã rửa vết thương bằng nước muối sinh lý 9%). Phối hợp với bột nghệ vàng dùng rắc lên vết thương đang lên da non cũng tốt.
4. Hạt Mướp có vị ngọt, tính bình, có tác dụng thông mạch, chống ho, làm long đờm. Dùng chữa ho và đờm dãi nhiều, bệnh giun đũa và táo bón.
5. Rễ Mướp có vị ngọt, tính bình, có tác đụng kháng viêm, thường dùng chữa viêm mũi, viêm xoang.
- Chữa các loại lở ngứa chảy nước, nấu nước rễ mướp già ngâm rửa.
6. Tua cuốn của Mướp dùng chữa đau thắt lưng, ho, viêm mũi, viêm khí quản.
Liều dùng: xơ Mướp, lá 10-15g, hạt 5-10g, tua cuốn 30-60g và rễ 15-30g sắc uống.
Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành
Xem thêm: CÂY RAU CÂY THUỐC - MƯỚP
Nhận xét
Đăng nhận xét