Rau bao, Rau diếp dại, Diếp trời - Sonchus arvensis L., thuộc họ Cúc - Asteraceae. Cây thảo sống 2 năm. Thân đứng, cao 1m. Lá thuôn nhọn mũi, có răng, có tai ở phần gốc ôm lấy thân. Đầu hoa dạng chuông mọc thành ngù hình tán. Bao chung của đầu hoa gồm nhiều lá bắc hình dải nhọn, có lông cứng, mỗi hoa có đài biến thành mào lông mềm, trắng, tràng có lưỡi ngắn hơn ống 2-4 lần; nhị 5; bầu hình trụ. Quả bế dẹp, thuôn hai đầu, có 5 cạnh.
Rau bao phổ biến ở miền Bắc Việt nam và phía bắc Trung bộ nước ta. Cây cũng phân bố ở nhiều nước khác (Ấn độ, Inđônêxia, Trung quốc, Nhật bản, Philippin) Ở Trung quốc, Nhật bản, cũng như ở các vùng cao của nước ta nhân dân thường trồng Rau bao làm rau ăn. Đồng bào hay trồng trong nương rẫy, trong vườn nhà. Do trồng trọt mà đã tuyển chọn được giống rau có lá nguyên và có kích thước lớn hơn của lá những cây mọc hoang dại.
Rau bao chứa một chất đắng đặc biệt và dùng ăn luộc, ăn xào hoặc nấu canh. Người ta thường dùng lá và ngọn non. Rau bao được xem như một loại rau bổ, giúp tiêu hoá tốt và lọc máu.
Người ta còn dùng toàn cây nấu nước cho phụ nữ đang cho con bú uống để thông sữa; cũng dùng trị lỵ, ăn uống không tiêu. Ở Ấn độ, toàn cây được dùng làm thuốc mát, dịu, lợi tiểu, làm ra mồ hôi, làm long đờm, dùng trị ho do lao phổi, viêm khí quản, hen suyễn và ho gà.
Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành
Nhận xét
Đăng nhận xét