Rau ngổ hay Rau om - Limnophila aromatica (Lour.) Merr., thuộc họ Hoa mõm sói - Scrophulariacene. Cây thảo mập, giòn, rỗng ruột, có nhiều lông. Lá đơn không cuống, mọc đối hoặc mọc vòng 3, có khi 5 lá, mép lá hơi có răng cưa thưa. Hoa đơn độc ở nách lá, có cuống dài; cánh hoa màu tím nhạt. Quả nang hình trứng. Toàn cây có mùi thơm.
Rau ngổ là một loại rau mọc hoang dại, cũng có trồng nhưng không có quy mô rộng lớn. Nó thường sản sinh ở những nơi đầm lầy, vũng lầy, ruộng nước.
Rau ngổ thường được dùng như các loại rau gia vị ăn sống hoặc chế biến thành những món ăn như Rau ngổ xào thịt bò, Rau ngổ um lươn.
Để dùng làm thuốc, người ta thu hái toàn cây, rửa sạch, thái ngắn dùng tưới hay phơi khô. Nó có vị chua cay, hơi se, tính mát, thơm có tác dụng lợi tiểu, kháng viêm, chống độc, tiêu sưng. Người ta đã biết trong Rau ngổ có tinh dầu flavonoit, cumarin. Nó làm dãn cơ phủ tạng như ruột, thận, làm dãn mạch, tăng lọc ở cầu thận, tăng lượng nước tiểu, tạo thuận lợi cho việc tống viên sỏi ra ngoài. Thường được dùng chữa sỏi thận, đái ra máu, lợi trung tiện, chữa băng huyết. Nó có tính chất giải độc, tiêu sưng, nên còn được dùng trị rắn độc cắn bị sưng phồng. Ở Trung quốc, người ta cũng dùng trị vết độc rắn cắn, trị sổ mũi, ho, ho gà, trị vết thương và bệnh ngoài da, bệnh ecpet mảng tròn, bệnh ngứa. Liều dùng là 15-30g, dạng thuốc sắc. Dùng ngoài giã cây tươi đắp. Phụ nữ có thai nghén không nên dùng.
- Chữa sỏi thận: 20-30g cây tươi giã ra, thêm nước uống. Hoặc dùng cây khô với liều ít hơn, sắc nước uống.
- Trị nọc độc rắn cắn: 20-40g cây khô sao vàng sắc nước uống. Dùng cây tươi giã nát lấy nước bôi, rửa và dùng bã đắp vào vết thương. Hoặc dùng Rau ngổ 15g, Kiến cò 25g, giã ra, thêm ít rượu trắng, chiết nước uống, còn bã đắp lên vết cắn.
- Sổ mũi, ho: dùng 15-30g sắc nước uống.
- Bệnh ecpet mảng tròn, bệnh ngoài da: Dùng cây tươi giã và nghiền ra lấy dịch cây bôi lên vết thương, đồng thời nấu nước Rau ngổ để rửa.
Cũng có tài liệu còn nêu cây Rau ngổ lá đối (Limnophila conferta Benth.) cũng được sử dụng làm thuốc, nhưng có tác giả lại ghép loài này gộp với loài trên. Ngổ lá đối cũng dùng làm rau ăn, và làm thuốc chống co thắt ở bệnh co giật.
Chúng ta còn dùng cây Rau ngổ thơm hay Ngổ trâu (Enydra fluctuans Lour.) thuộc họ Cúc (Asteraceae). Rau ngổ thơm là loại cây thảo sống nổi hay ngập nước, dài tới hàng mét, phân cành nhiều, có đốt. Thân hình trụ, có rãnh. Lá mọc đối, không cuống, gốc hơi rộng và ôm lấy thân, lá có răng cưa. Cụm hoa dạng đầu, không cuống, bao bởi 4 lá bắc hình trái xoan tù, màu lục. Hoa cái và hoa lưỡng tính đều sinh sản. Quả bế không có mào lông.
Rau ngổ thơm phân bố ở nhiều nơi vùng Đông nam Á. Ở nước ta, cây mọc phổ biến trong các ao hồ, mương máng, ruộng nước. Cũng thường được trồng lấy lá thơm làm rau ăn, có thể ăn sống hay nấu canh. Nhân đân cũng thường hái về làm rau cho lợn.
Trong Rau ngổ thơm có 92,2% nước; 1,5% protein; 0,3% lipid; 1,3% cellulose; 3,8% dẫn xuất không protein và 0,9% khoáng toàn phần.
Rau ngổ thơm là loại cây thuốc có vị hơi đắng, tính mát có tác dụng kháng sinh, cầm máu, nhuận tràng. Nhân dân thường dùng nó chữa cảm sốt, chữa băng huyết, thổ huyết và dùng ăn nhuận tràng, dễ tiêu hoá. Lá giã giập ra dùng đắp vào da trị phát ban ecpet.
Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành
Xem thêm: THÔNG TIỂU TIỆN VÀ THÔNG MẬT - Rau Om
Xem thêm: CẦM MÁU - Rau Ngổ
Nhận xét
Đăng nhận xét