Chuyển đến nội dung chính

PHÒNG CHỮA BỆNH NHỜ RAU CỦ QUẢ QUANH TA - GẠO NẾP CHỮA CHẢY MÁU CAM

PHÒNG CHỮA BỆNH NHỜ RAU CỦ QUẢ QUANH TA - GẠO NẾP CHỮA CHẢY MÁU CAM

* Đặc tính:
- Gạo nếp có giá trị đinh dưỡng rất cao. Theo danh y Uông Ngang đời Thanh, gạo nếp có tên gọi là nhu mễ, vị ngọt, tính ấm, chất dẻo, mùi thơm, làm mạnh phổi.
- Ăn gạo nếp chữa được chứng tì vị hư hàn, đại tiện phân lỏng, tiểu tiện khó, mồ hôi trộn, giải được chất độc. Tuy nhiên ăn nhiều chất nếp sẽ sinh nhiệt, dễ sưng nướu răng, mọc mụn, nhọt, nóng cổ khó chịu.

Công dụng:

1. Trị chứng chảy máu cam không ngớt:
Lấy một bát gạo nếp rang vàng lên, tán mịn, mỗi lần uống 6-7g với nước mới múc từ giếng lên, hoặc với nước đun sôi để nguội, đồng thời lấy một tờ giấy vê thành cái ống nhỏ, chấm một ít bột gạo nếp thổi vào lỗ mũi.

2. Chữa bệnh thương hàn, chứng sốt nóng, nôn oẹ:
Khi bị thương hàn phải chữa trị gấp. Lấy một vốc gạo nếp, một củ gừng tươi thái nhỏ, cho vào một bát nước to rồi đổ vào xoong nấu thành cháo, ăn nóng.

3. Trị chứng lỵ cấm khẩu:
Khi bị lỵ gây nên cấm khẩu phải chữa trị ngay lập tức, nếu không sẽ nguy đến tính mạng.
Lấy khoảng 100g thóc nếp đem rang rổ bung, sảy vỏ, phun nước cho ẩm, trộn đều, sao giòn, tán thành bột. Mỗi lần uống độ một thìa với nước đun sôi để nguội.

4. Trị chứng thổ tả nặng:
- Khi bị chứng thượng thổ, hạ tả, bụng trên và bụng dưới đau quặn, chân tay lạnh giá, gần rút lại, bệnh tình nguy ngập, mau lấy 120 hạt gạo nếp, một miếng gừng sống, cho vào cối sạch giã thật lâu, dùng nước mưa hoặc nước giếng hoà đều, lọc bỏ bã, uống sẽ lành bệnh.

5. Chữa chứng không có sữa sau khi sinh:
Nhiều bà mẹ sau khi sinh không có sữa, hoặc không đủ sữa cho con bú. Lấy một vốc gạo nếp, một nhóm hạt mùi già (hoặc 12 nắm lá mùi) cho vào xoong, đổ độ ba tô nước, nấu thành cháo, ăn làm hai lần sáng, chiều. Ăn xong dùng lược thưa chải lên bầu sữa từ trên xuống.

6. Chữa nhọt bọc ở trẻ:
Khi trẻ lên nhọt bọc lâu ngày không khỏi, hoặc khỏi mới lên da non, ít lâu mọc sưng tấy trở lại, chảy nhiều máu mủ, gây đau đớn biếng ăn. Lấy một ít gạo nếp nấu thành cơm nếp, cho vào cối sạch, dùng chày giã thật nhuyễn, nặn dẹt như cái bánh dày, rắc tiêu bột vào. Dùng kéo hớt hết lớp tóc phủ lên nhọt, lấy bông nhúng nước sôi để còn âm ấm, rửa sạch máu mủ trên nhọt, đợi khô thì ấp miếng cơm nếp vào đó. Để khi khô cứng tự nó sẽ bong ra, không được bóc.

Bài viết được trích từ sách: PHÒNG CHỮA BỆNH NHỜ RAU CỦ QUẢ QUANH TA
của lương y QUỐC ĐƯƠNG, NXB Từ Điển Bách Khoa ấn hành.
Hy vọng bài viết có ích lợi cho các bạn quan tâm.


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CÂY RAU LÀM THUỐC - KHOAI NƯA

Khoai nưa hay Khoai na - Amorphophallus paeoniifolius (Dennst.) Nicols, = A. campanulatus (Roxb.) Blume ex Decne, thuộc họ Ráy - Araceae. Cây thảo sống lâu năm, có thân củ nằm trong đất; củ hình bán cầu, rộng đến 20cm, mặt dưới lồi mang một số rễ phụ và có những nốt như củ khoai tây chung quanh có 3-5 mấu lồi; vỏ củ màu nâu, thịt trắng vàng và cứng. Lá mọc sau khi đã có hoa, thường chỉ có một lá có cuống cao tới 1,5m được gọi là dọc (cọng) dọc màu xanh sẫm có đốm bột; phiến chia làm 3 nom tựa như lá Ðu đủ. Cụm hoa gồm một mo to màu đỏ xanh có đốm trắng, mặt trong màu đỏ thẫm, bao lấy một bong mo là một trục mang phần hoa cái ở dưới, phần hoa đực ở trên. Khoai nưa phân bố ở Ấn độ, Myanma, Trung quốc, Việt nam, Campuchia, Malaixia, Inđônêxia, Philippin. Ở nước ta, khoai nưa mọc hoang rải rác ở khắp các vùng rừng núi, được bà con nhiều địa phương đem về trồng từ lâu đời ở trong vườn, quanh bờ ao, dọc hàng rào và trên các đồi để làm thức ăn cho người và gia súc, gặp nhiều ở các tỉnh Lạng s...

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.