Chuyển đến nội dung chính

Tự Chữa Bệnh Bằng Cây Thuốc Nam - MỘT SỐ BÀI THUỐC HAY (Phần 7)

Tự Chữa Bệnh Bằng Cây Thuốc Nam - MỘT SỐ BÀI THUỐC HAY (Phần 7)

+ Chữa ngộ độc do sắn (khoai mì):
- Rau muống 1 nắm nhai sống hoặc vắt lấy nước uống.
- Cây chuối sứ bóc bỏ bẹ ngoài, chỉ lấy nõn trắng một đoạn 20 - 30cm làm như trên.
- Ăn mía hoặc uống nước mía, nước đường.
- Rau sam 1 nắm giã vắt nước uống.
- Lá khoai lang 1 nắm uống sống hoặc luộc ăn.
- Bê 1 nắm lá sắn của giống sắn đã gây độc, sắc uống.
- 10 con cua đồng giã lấy nước cốt uống với ít hạt muối.
- Nước cốt rau má hoặc lá sắn dây uống sống.
- Lấy một nắm rau má tươi, rửa sạch giã nhuyễn, vắt lấy nước cốt rồi hòa với 1 cốc nước sôi còn hơi ấm uống. Người bị ngộ độc sắn, lúc đầu thấy chóng mặt nhức đầu, chóng mặt, choáng váng rất khó chịu sau lại bị nôn mửa đau bụng, dần dần sắc mặt tái rất khó thở (thở nhanh). Lập tức lấy một chén đậu xanh giã nát, đun sôi để nguội rồi lọc lấy nước uống làm 2 lần, mỗi lần cách nhau từ 1 - 2 giờ.

+ Chữa ngộ độc do trái thơm (dứa, khóm):
Dùng ngay vỏ trái thơm đã ăn sắc với rau má cho uống với ít hạt muối.
- Cho uống nước đậu xanh và lá dâu sắc thật đặc.

+ Chữa ngộ độc do nấm:
Trước hết dùng lông gà ngoáy họng cho nôn ra rồi cho uống một trong những bài thuốc sau:
- Mộc nhĩ 40g, đậu xanh 40g sắc đặc uống.
- Lá khoai lang tươi 1 nắm giã nát, thêm nước để nguội vào, vắt lấy nước uống.
- Tiết vịt nửa lỵ, uống khi còn nóng.
- Hòa bột sắn dây uống.

+ Chữa ngộ độc do tôm, cua, cá sò:
- Lá tía tô, lá lốt sắc đặc uống (nhớ đậy kín nồi khi sắc).
- Ăn phải cá nóc (một loài cá độc ở biển) thì hái 1 nắm ngọn khoai lang giã với ít hạt muối, thêm 1 chén nước sôi để nguội, khuấy kỹ rồi lọc lấy nước uống.

+ Chữa ngộ độc các loại thịt:
- Với thịt gà: Sắc 1 nắm lá chanh uống.
- Với thịt trâu bò: Lấy nửa chén tương giã 1 miếng gừng trộn vào ăn.
- Với thịt dê: Lá hoặc hạt mướp đắng sắc đặc uống.

+ Chữa ngộ độc do rau sống:
- Riềng tươi 40g, vỏ quýt 12 g sắc uống.
+ Chữa ngộ độc do ăn phải thịt chim (có độc):
Da nổi mẩn ngứa ngáy, hoặc nôn mửa... Lấy một chén đậu ván trắng nghiền sống thành bột rồi hòa với nước lạnh uống.

+ Chữa khi ngộ độc thạch tín:
Lấy ngay 1 vốc đậu ván trắng giã nhỏ hòa với nước uống ngay lập tức rồi mới điều trị sau.
Nếu bị ngộ độc thạch tín (nặng) thì lấy rễ rau huyên giã vắt lấy nước uống.

+ Chữa ngộ độc lá ngón:
Khát nước, họng đau rát, bụng đau dữ dội, nôn mửa, hoa mắt, răng cắn chặt sùi bọt mép... do ngộ độc lá ngón thì lấy một nắm cây rau má (nhổ cả cây) rửa sạch, giã thật nát, vắt lấy nước cốt hòa với nước sôi còn ấm uống.

+ Ăn cua bị ngộ độc:
Ăn cua bị ngộ độc thì lấy một nắm lá tía tô, sắc đặc, uống nóng.

+ Chữa ngộ độc nấm:
Lấy khoảng 400g rau má, sắc cùng với 200 gam đường phèn, để uống.
- Lấy củ cải (1kg), rau má (0,4kg) cũng giã nát vắt (ép) lấy nước uống.

+ Chữa trúng gió độc:
Bị trúng gió độc gây ra méo miệng thì lấy 1 nắm lá kinh giới và mấy nhánh hành rửa sạch giã nát nhuyễn vắt lấy nước uống.
- Bị trúng gió độc ngất xỉu thì lấy 3 cây hành trắng rửa sạch, giã nát vắt lấy nước cốt hòa với nước tiểu trẻ con (đồng tiện, nước tiểu con trai) uống.
- Người bị trúng gió, cứng đờ, cấm khẩu, lấy một nắm lá kinh giới, sao thành than, tán thành bột hòa 1 chút rượu đổ vào miệng. Nếu miệng đã cứng răng cắn chặt thì lấy 1 múi chanh chà vào lợi, hàm răng tự há ra rồi đổ nước thuốc vào.

+ Chữa chứng bệnh trúng nắng (bất tỉnh hoặc bán hôn mê):
Lấy 1 nắm lá rau răm rửa sạch, sắc lên cho uống thì khỏi.
- Nếu người bị say nắng nặng nửa mê nửa tỉnh thì lấy rau răm (30 gam), sâm bố chính (20 gam đã tẩm nước gừng). Mạch môn (10 gam), đinh lăng (16 gam, loại lá nhỏ). Cả 4 vị đều sao vàng sắc với 600ml nước, còn 300ml thì uống trong ngày, chia làm 2 lần.
- Bị trúng nắng xây xẩm đầu nhức... lấy ngay một nắm to rau má, rửa sạch, giã nát vắt lấy nước cốt rồi hòa với 1 bát nước sôi để nguội, cho thêm 1 ít muối (thêm 1 ít đường nếu như có bột sắn dây cho thêm vào) khi uống xong thì phải nằm nơi mát thoáng. Dùng bã rau má đắp lên trán và hai bên thái dương rồi băng lại.

+ Chữa ngộ độc nặng:
Nếu bị trúng độc nặng, đại tiện ra máu (màu máu như màu gan) hoặc mửa ra máu, hay bụng đau như bị vật gì cắt, nghẹt tức, bụng trướng, biến chứng rất nhiều..., lấy 1 bát dầu mè (vừng) uống cho chất độc nôn thốc ra ngoài.
Uống dầu mè (vừng) cũng có thể chữa được chứng nuốt phải tóc gây di chứng.

+ Chữa chứng nôn mửa do bị ngộ độc:
Nôn mửa do ăn hoặc trúng gió thì lấy khoảng 15 - 20g lá xương xông rửa sạch sắc uống (hoặc hãm nước).

+ Giã rượu:
- Xát vôi ăn trầu vào hai gan bàn chân.
- Nấu cháo đậu xanh cho ăn.
- Sắc lá dong cho uống.
- Nước cốt rau má nửa chén, vắt chanh cho uống.
- Nếu chưa say lắm thì nhai vài nắm giá sống.
- Dùng lông gà ngoáy họng cho nôn hết, ra để cứu nguy tức thời.

Bài viết được trích từ sách: TỰ CHỮA BỆNH BẰNG CÂY THUỐC NAM
do Trần Hải Yến biên soạn, NXB Thời Đại ấn hành.
Hy vọng bài viết có ích lợi cho các bạn quan tâm.


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CÂY RAU LÀM THUỐC - KHOAI NƯA

Khoai nưa hay Khoai na - Amorphophallus paeoniifolius (Dennst.) Nicols, = A. campanulatus (Roxb.) Blume ex Decne, thuộc họ Ráy - Araceae. Cây thảo sống lâu năm, có thân củ nằm trong đất; củ hình bán cầu, rộng đến 20cm, mặt dưới lồi mang một số rễ phụ và có những nốt như củ khoai tây chung quanh có 3-5 mấu lồi; vỏ củ màu nâu, thịt trắng vàng và cứng. Lá mọc sau khi đã có hoa, thường chỉ có một lá có cuống cao tới 1,5m được gọi là dọc (cọng) dọc màu xanh sẫm có đốm bột; phiến chia làm 3 nom tựa như lá Ðu đủ. Cụm hoa gồm một mo to màu đỏ xanh có đốm trắng, mặt trong màu đỏ thẫm, bao lấy một bong mo là một trục mang phần hoa cái ở dưới, phần hoa đực ở trên. Khoai nưa phân bố ở Ấn độ, Myanma, Trung quốc, Việt nam, Campuchia, Malaixia, Inđônêxia, Philippin. Ở nước ta, khoai nưa mọc hoang rải rác ở khắp các vùng rừng núi, được bà con nhiều địa phương đem về trồng từ lâu đời ở trong vườn, quanh bờ ao, dọc hàng rào và trên các đồi để làm thức ăn cho người và gia súc, gặp nhiều ở các tỉnh Lạng s...

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.