Chuyển đến nội dung chính

Cây Hoa Chữa Bệnh - SEN CẠN

Cây Hoa Chữa Bệnh - SEN CẠN

Tên khác: Cây Hạn liên hoa, Kim liên hoa, Hạn kim liên.
Tên khoa học: Tropaeolum majus L. Họ Sen cạn (Tropaeolaceae).

Nguồn gốc:
Cây có nguồn gốc ở đãy núi Andes Nam Mỹ. Những châu Mỹ; quân của F. Pizarre (Thế ký 16) đi chinh phục Perou mang cây thuốc này về Tây Ban Nha, châu Âu, cùng với những kho vàng cướp được của các vua, chúa vương quốc Quichua ở Perou Nam Mỹ (Thời kỳ tìm ra châu Mỹ). Tên đặt cho cây thuốc là Tropaeolum, xuất xứ bởi từ Tropalon có nghĩa là “chiến tích”; vì hoa và lá cây này giống hình mũ sắt và khiên, có trên tượng đài và các bức tường trang trí, chiến tích (mũ và khiên). Còn cựa cánh hoa lại giống hình chiếc mũ chùm đầu (gắn liền với áo), hoặc mũ thầy tu (capuce, capuchon) nên tên là “capucine”.
Còn tiếng Việt gọi tên cây là cây Hạn liên, Sen cạn.

Mô tả:
Cây Sen cạn, cây thảo sống 1 năm hay nhiều năm, thân hình trụ tròn, mọng nước; tùy tình hình, cây có thể leo được. Lá hình khiên, mọc nhiều; cuống lá dài, lá hơi bị xẻ, màu lục nhạt bóng. Hoa to có cựa, màu đỏ cam thẫm. Quả bế ba (triakene).

Bộ phận dùng:
Ngọn cành mang hoa tươi (mùi mạnh), lá.

Thành phần hoá học:
Hetrosid: glucotropeolosid có thể tạo ra benzyl isothiocyanat.

Tác dụng:
Sen cạn được dùng làm thuốc cũng như thức ăn. Một sách chuyên luận đã nêu lên ở thế kỷ 18: thời đó người ta đã dùng Sen cạn thay cho Cải xoong (cresson) để phòng và chữa bệnh hoại huyết (scorbut). Đem trộn với xà lách để có vị cay (trộn hoa và lá non Sen cạn). Người ta còn ngâm, trộn giấm nụ hoa và hạt còn xanh lục làm gia vị như nụ Bạch hoa. Từ khi Elisabeth - Christine, con gái nhà thực vật học nổi tiếng Thụy Điển, Charles de Linné (1707 - 1778) (Carl von Linné), phát hiện đầu tiên hiện tượng sau đây: những buổi chiều tà, những ngày hè nóng bức, từ các nhị, nhụy hoa có những tia sáng phóng ra từ tâm hoa Sen cạn; các nhà bác học đã chú ý đến thành phần hoá học của cây (theo họ, hiện tượng lạ này là do cây có nhiều chất acid phosphorie). Người ta rút ra kết luận về tác dụng trị bệnh của Sen cạn là: cây có tác dụng kháng sinh tự nhiên mà lại không phá vi khuẩn đường ruột. Cây còn có tác dụng làm trẻ hoá và kích dục và được gọi là hoa của tình yêu.
Quả chín khô của Sen cạn (liều dùng 0,60 g) đập dập nát, ăn với 1 thìa cà phê mật ong hay với 1/2 cốc nước đường là thuốc xổ nhẹ không gây đau bụng.
Sen cạn còn là thuốc lợi cho tóc và da đầu, do nó chứa hàm lượng cao về lưu huỳnh (100g lá có 0,17g lưu huỳnh) thuốc làm ngừng rụng tóc, làm tóc mọc thuận lợi, bổ dưỡng cho da đầu.
Thuốc nước (lotion) dùng cho da đầu và tóc có công thức (theo Palaiseul) như sau: lá, hoa, hạt tươi Sen cạn 100g; lá tươi cây Tầm ma (ortie) 100g; Lá tươi cây Hoàng dương (Buxus Sempervirens L.) 100g, cồn 90% 500g. Dược liệu băm nhỏ, ngâm rượu 15 ngày; lọc ép lấy rượu thuốc; thêm vài giọt tinh dầu La văng (Oải hương) hoặc tinh dầu Hương thảo (Rosmarinus). Dùng rượu thuốc xoa bóp mạnh vào da đầu hoặc chải đầu với bàn chải hơi cứng.

Theo Đông y:
Tính vị: Tân, lương, không độc.
Công năng: Trị sang độc (nhọt độc), thanh nhiệt giải độc, điều trị mắt đỏ sưng đau, nhọt to và độc (ác độc, đại sang).
Cách dùng, liều lượng: Dùng ngoài: giã nhỏ để bôi, đắp.
(Trung Dược Đại từ điển 1995, số 2288).
Theo các tư liệu trên, hoa, lá Sen cạn chủ yếu dùng ngoài để làm thuốc thanh nhiệt giải độc, ức chế vi khuẩn, trị nhọt. Thường dùng dưới dạng thuốc nước (lotion) hay shampoo để gội đầu làm sạch da đầu và tóc; bổi đưỡng da đầu, đỡ rụng tóc hoặc chữa mụn nhọt.

Bài viết được trích từ sách: CÂY HOA CHỮA BỆNH
của các tác giả Nguyễn Văn Đàn, Vũ Xuân Quang, 
Ngô Ngọc Khuyến biên soạn, NXB Y Học ấn hành.



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CÂY RAU LÀM THUỐC - KHOAI NƯA

Khoai nưa hay Khoai na - Amorphophallus paeoniifolius (Dennst.) Nicols, = A. campanulatus (Roxb.) Blume ex Decne, thuộc họ Ráy - Araceae. Cây thảo sống lâu năm, có thân củ nằm trong đất; củ hình bán cầu, rộng đến 20cm, mặt dưới lồi mang một số rễ phụ và có những nốt như củ khoai tây chung quanh có 3-5 mấu lồi; vỏ củ màu nâu, thịt trắng vàng và cứng. Lá mọc sau khi đã có hoa, thường chỉ có một lá có cuống cao tới 1,5m được gọi là dọc (cọng) dọc màu xanh sẫm có đốm bột; phiến chia làm 3 nom tựa như lá Ðu đủ. Cụm hoa gồm một mo to màu đỏ xanh có đốm trắng, mặt trong màu đỏ thẫm, bao lấy một bong mo là một trục mang phần hoa cái ở dưới, phần hoa đực ở trên. Khoai nưa phân bố ở Ấn độ, Myanma, Trung quốc, Việt nam, Campuchia, Malaixia, Inđônêxia, Philippin. Ở nước ta, khoai nưa mọc hoang rải rác ở khắp các vùng rừng núi, được bà con nhiều địa phương đem về trồng từ lâu đời ở trong vườn, quanh bờ ao, dọc hàng rào và trên các đồi để làm thức ăn cho người và gia súc, gặp nhiều ở các tỉnh Lạng s...

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.