Chuyển đến nội dung chính

NHỮNG VỊ THUỐC QUANH TA - Đậu Đỏ

NHỮNG VỊ THUỐC QUANH TA - Đậu Đỏ

a. Thành phần và tác dụng

Đậu đỏ chứa rất nhiều vitamin và các nguyên tố vi lượng, đặc biệt là sắt và vitamin B₁₂, giúp bổ máu và có chức năng thúc đẩy vòng tuần hoàn của máu, những phụ nữ có chu kì kinh nguyệt dài, mất nhiều máu nên ăn nhiều đậu đỏ, phụ nữ mang thai ăn nhiều đậu đỏ còn có tác dụng kích thích tuyến sữa. Trong 100g hạt đậu đỏ khô có chứa: đường 60,9g, protit 20,9g, chất xơ 4,8g, chất béo và khoáng chất gồm canxi, phot pho, sắt, vitamin B tổng hợp.
Đậu đỏ có vị ngọt, tính ấm. Công hiệu lợi thuỷ trừ thấp (vận hành thể dịch, không bị ứ), hoà huyết bài nùng (điều hoà máu huyết, thải mủ), tiêu thũng giải độc (giải độc, chống phù), điều kinh thông nhũ (điều kinh, thông tuyến sữa), thoái vàng (da vàng biến mất). Dùng chữa trị các chứng bệnh như chân phù thũng, ung nhọt, sau khi sinh dịch âm đạo không sạch, bầu sữa không thông, vàng da do viêm gan, kiết lỵ.
Đậu đỏ chứa các chất có tác dụng lợi tiểu, giúp điều trị các chứng như phù do bệnh tim; thận, xơ gan cổ trướng...
Đậu đỏ chứa nhiều protit, nguyên tố vị lượng (vitamin A, B₁, B₂, canxi, phot pho, sắt...), trợ giúp tăng cường chức năng miễn dịch, nâng cao sức để kháng.

b. Bài thuốc phối hợp

- Lợi tiểu, chống phù thũng: Đậu đỏ 0,5kg, cá chép 1 con (khoảng 0,5kg). Đậu đỏ vo sạch, cá chép làm sạch cùng cho vào nồi thêm 2 lít nước, nấu cho đến khi đậu mềm. Dùng canh ăn cá và đậu trong vài lần, mỗi ngày hay cách ngày ăn 1 lần, có thể dùng liên tục đến hết bệnh.
- Hồi phục chức năng hệ tiêu hoá: Đậu đỏ 20g, ý dĩ 30g, gạo tẻ 30g, đường với lượng vừa. Những nguyên liệu riêng biệt rửa sạch, ngâm mềm. Cho đậu đỏ vào nồi, thêm nước vừa đủ, dùng lửa lớn nấu sôi, sau dùng lửa nhỏ nấu đến khi đậu mềm, rồi thêm ý dĩ và gạo vào, nấu tiếp, cho đến khi nhừ, sau cùng nêm đường. Mỗi ngày ăn 2 lần, dùng liền nhiều ngày.
- Phụ nữ sau sinh thiếu sữa, tiểu ít: Đậu đỏ 250g, vo sạch cho vào nôi đất, thêm 0,5 lít nước, nấu khoảng 20 phút, lấy nước bỏ đậu, dùng liền 3 - 5 ngày.
- Chống tiêu chảy, thanh nhiệt trừ thấp: Đậu đỏ 50g, củ mài 50g, đường với lượng vừa. Đậu đỏ vo sạch, củ mài gọt vỏ rửa sạch, cắt lát nhỏ, đậu đỏ cho vào nồi, dùng lửa lớn nấu sôi, sau đó cho vào củ mài, dùng lửa nhỏ nấu cho đến khi đậu và củ mài mềm, nêm thêm đường. Mỗi sáng chiều dùng 1 lần.
- Phù thũng khi mang thai: Đậu đỏ 200g, cá chép 1 con, lạc 150g, tỏi 25g, ớt 3 quả. Cá chép làm sạch, cùng các vật liệu khác cho vào nồi đất, thêm nước vừa đủ, trộn lẫn nấu chín, uống ấm lúc bụng đói, chia 2 lần uống hết, dùng liền 5 ngày.
Hoặc: Đậu đỏ 100g, cá trích 250g. Cùng cho vào nồi đất, thêm nước, dùng lửa to hầm đến nhừ thì uống nước, bỏ cái.
- Béo phì, tay chân phù: Đậu đỏ 50g, gạo tẻ 50g. Đậu đỏ dùng nước ấm ngâm 2 - 3 giờ, sau đó vớt ra, cho vào nồi, thêm 0,5 lít nước, nấu đậu đỏ cho đến khi nhừ, thêm gạo nấu cháo, ăn ngay lúc ấm vào sáng và chiều.
- Sốt rét: Đậu đỏ 100g, cá chép 1 con, táo đỏ 10 quả, gừng tươi 30g. Cá bỏ vậy, mang và nội tạng, táo đỏ bỏ hạt, tất cả cùng nấu canh, nêm gia vị, ngày ăn 1 lần, dùng liền 4 ngày.
- Xơ gan: Đậu đỏ 120g, cá chép 1 con, vỏ quýt 10g, đường trắng vừa đủ. Cá bỏ vảy, mang và nội tạng rửa sạch, thêm vỏ quýt, đậu đỏ cùng nấu đến nhừ, thêm đường trắng vừa đủ.
- Bệnh về đường tiết niệu: Đậu đỏ 50g, gạo tẻ 50g, màng mề gà 20g (phơi khô tán bột), đường trắng vừa đủ. Đậu đỏ cùng gạo tẻ nấu chè, khi chín trộn vào bột màng mề gà và đường trắng vừa đủ, ngày ăn 2 lần, 30 ngày là một liệu trình.
- Viêm thận cấp tính: Đậu đỏ 50g, cá chép 1 con, bí xanh 1kg, hành 5 cọng. Cá bỏ vảy, mang và nội tạng, rửa sạch, thêm 5 bát nước, cùng các nguyên liệu khác, sắc còn 3 bát, sau khi uống canh ăn cá đắp chăn cho vã mồ hôi, ngày 1 thang, dùng liền 7 ngày.
- Đau lưng: Đậu đỏ 50g, vỏ dưa hấu 50g, rễ cỏ tranh 50g. Sắc uống, ngày 2 lần, dùng liền vài ngày.
- Viêm gan vàng da, viêm tuyến tụy: Đậu đỏ 120g, cá chép 1 con, vỏ quýt 6g. Cá bỏ vảy, rửa sạch, tất cả cho vào nồi, cùng nấu nhừ.
- Giúp tỉnh rượu, giải độc: Đậu đỏ vừa đủ. Dùng nước vo sạch, thêm nước vừa đủ, sắc uống.
- Trĩ ra máu: Đậu đỏ 250g, giấm 1 lít, rượu đế vừa đủ. Đậu đỏ cho vào nồi cùng nấu với giấm, sau khi đậu nhừ vớt ra phơi khô, cứ lặp lại như thế cho đến khi số giấm cạn sạch, sau khi đem đậu phơi khô tán mịn, uống kèm với rượu, ngày 3 lần, mỗi lần 3g.
- Bế kinh, đau bụng kinh: Đậu đỏ 30g, gạo tẻ 30g, đường mạch nha vừa đủ. Đậu đỏ, gạo tẻ dùng nước vo sạch, nấu chè, nêm đường mạch nha.
- Tiểu ra máu: Đậu đỏ 30g, qua lâu 25g. Quả qua lâu đốt thành than, cùng đậu đỏ tán mịn, mỗi lần 9g, uống với rượu, dùng liền 7 ngày.
- Thiếu sữa: Đậu đỏ và gạo tẻ mỗi thứ vừa đủ. Đậu đỏ sắc nấu dùng uống thay trà, hoặc thêm gạo tẻ nấu cháo ăn.
- Thiếu máu: Đậu đỏ 250g, sắc uống thường xuyên.
- Phù thũng, phù chân: Đậu đỏ 120g, bí đao 250g, sắc uống.
- Phù thũng tiểu ít: Đậu đỏ 50g, bí đao 0,5kg. Dùng nước vừa đủ nấu canh, không nêm muối, dùng canh ăn bí đao, ngày 2 lần, dùng liền vài ngày.
- Viêm mang tai (quai bị): Đậu đỏ, giấm, trứng gà vừa đủ. Đậu đỏ tán mịn, dùng lòng trắng trứng gà hay giấm khuấy thành hồ, thoa phết tại chỗ.

Trích nguồn từ sách: "NHỮNG VỊ THUỐC QUANH TA"
của Đức Minh do NXB Hà Nội ấn hành



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.