Dùng rễ của cây sinh địa hoàng - Rehmannia glutinosa Gaertn. Họ Hoa mõm sói - Scrophulariaceae. Cần phân biệt 3 loại: địa hoàng là rễ tươi chưa qua chế biến, can địa hoàng là rễ đã qua sấy, thục địa là rễ qua chưng với phụ liệu như sa nhân, gừng, rượu...
Tính vị: vị đắng, tính hàn (sinh địa, và can địa hoàng).
Công năng chủ trị:
- Thanh nhiệt lương huyết: dùng đối với bệnh tà nhiệt nhập vào phần dinh, biểu hiện sốt cao, miệng khát, lưỡi đỏ tâm phiền, thường phối hợp với hoàng liên, huyền sâm, khi huyết nhiệt dẫn đến xuất huyết thì phối hợp với tê giác, mẫu đơn bì, trắc bách diệp (sao cháy), hoa hoè (sao đen).
- Dưỡng âm, sinh tân dịch: thuốc bản chất có nhiều dịch nhuận có thể dưỡng âm. Vị ngọt tính hàn có thể sinh tân dịch, cho nên có thể dưỡng âm, nhuận táo kết. Sau thời kỳ bị sốt hoặc bị nhiệt, nhiệt làm thương tốn đến tân dịch. Thường phối hợp với huyền sâm, mạch môn đông. Trường hợp do âm hư hoả vượng bốc lên thì dùng chung với hoài sơn, trạch tả (lục vị địa hoàng hoàn).
- Chi khát: sinh địa còn dùng để điều trị bệnh đái đường có kết quả, thường phối hợp với huyền sâm, cát căn, hoài sơn, tang diệp.
Liều dùng: 12 - 40g.
Kiêng kỵ: do thuốc có nhiều dịch, bản chất của nó là trệ nhờn cho nên những người tỳ hư, bụng đầy, đại tiện lỏng và dương hư, nhiều đờm thấp nhiệt đều không dùng.
Chú ý:
- Loại sinh địa còn tươi, tính hàn lớn hơn, do đó thường dùng để thanh nhiệt lương huyết, loại khô vị ngọt, tính hàn dùng dưỡng âm, sinh tân dịch, hạ đường huyết. Thục địa qua chế biến (với gừng, sa nhân, rượu), vị ngọt, tính ấm có tác dụng bổ huyết, tư âm.
- Tác dụng dược lý: sinh địa có tác dụng thúc đẩy sự ngưng kết của huyết dịch, có tác dụng cầm máu. Có tác dụng cường tim, nhất là càng rõ đối với tim đã suy nhược. Ngoài ra còn có tác dụng hạ đường huyết rất tất, do chất catapol là một trong những iridoid có trong sinh địa.
- Tác dụng kháng khuẩn: sinh địa có tác dụng ức chế nấm ngoài da.
Phạm Xuân Sinh, Phùng Hoà Bình và Vũ Văn Điển thấy rằng trong sinh địa trồng ở Việt Nam đều chứa iridoid glycozid, hàm lượng đó thấp nhất ở giai đoạn mới đào củ về (0,3%), sau khi chế biến bằng cách sấy ở nhiệt độ khác nhau tăng dần và cho hàm lượng cao nhất 1,09%, ở giai đoạn cuối ủ ấm 3 ngày. Ở giai đoạn thành phẩm sinh địa, hàm lượng giảm xuống còn 0,58% và tiếp tục giảm khi chế thục. Ở giai đoạn thành phẩm của thục, hàm lượng chỉ còn 0,1% như vậy so với sinh địa giảm đi 82,7%. Trong khi hàm lượng iridoid giảm thì hàm lượng đường khử lại tăng lên; do đó vị ngọt trong thục địa thể hiện rất rõ. Điều đó phần nào chứng tỏ việc chế biến sinh địa, thục địa có ý nghĩa thay đổi tính vị.
Trích nguồn từ sách: "DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN"
của TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI,
Bộ môn DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN, NXB Y HỌC
Xem thêm: THUỐC BỔ, THUỐC BỒI DƯỠNG - Sinh Địa
Nhận xét
Đăng nhận xét